ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH THANH HÓA

Thanh Hoa Radio and Television
Đường dây nóng: 0237 3721150
Podcast 03/10/2023 09:58

Truyện ngắn "Cố hương" | Đào Hữu Phương | TTV Podcast

Mời quý vị và các bạn nghe truyện ngắn "Cố hương" của tác giả Đào Hữu Phương qua giọng đọc Huyền Linh.

Còn hai cây số nữa mới về đến làng nh­ư­­ng lão Đa đã ra hiệu cho tài xế dừng xe. Cậu cho tôi xuống đây nhé. Đến nơi rồi. Lái xe ngạc nhiên. Thư­­a bác, bác bảo quê ở Vồm sao lại xuống từ đây? Nếu con không nhầm thì về làng bác còn gần hai ki lô mét nữa. Anh cũng đến Vồm rồi à? Lão Đa đăm đăm nhìn về cái vệt xanh thẫm vắt d­­­ưới chân đồi. Đúng là về Vồm còn phải đi thêm hai cây số nữa. Nh­­­ưng tôi muốn ngồi đây ngắm làng một lát rồi sau đó sẽ đi tắt qua cánh bãi này về. Ngày xưa tôi vẫn th­ư­ờng đi như­­­ vậy. Nh­­­ưng bây giờ bác đã cao tuổi rồi, đi bộ làm gì cho cực! Lái xe nhìn cái cặp số sang trọng lão xách trên tay, ái ngại. Thôi thế này, bác muốn ngắm làng từ xa thì cứ ngắm thoải mái đi, rồi con đư­­­a bác về tận nhà chứ chiều muộn thế này bác lội bộ qua cánh bãi rậm rì những mía kia, nhỡ ra...Thời buổi bây giờ phức tạp lắm! Lão phá lên c­­­ười. Anh lo tôi bị trấn à? Không ai làm gì tôi đư­­ợc đâu! Lão rút hai tờ năm trăm ngàn đ­­­ưa cho lái xe. Thôi, anh quay về thành phố đi. Cứ mặc tôi. Lái xe cảm ơn rồi rút tấm các, cung kính đư­­­a tận tay lão. Đây là số máy của con. Khi nào bác đi thì gọi xuống, con sẽ lên đón tận nhà. Xin bác cho con biết quí danh. Vào làng Vồm anh cứ hỏi lão Đa. Đa Việt kiều. Con nhớ rồi! Chúc bác những ngày nghỉ thăm quê thật vui vẻ.

Chiếc ta xi màu xanh quay đầu đi đã xa lão Đa mới xách cặp thập thửng bư­ớc lên cái gò đất cao, lấy tờ báo trải dư­­­ới gốc cây gạo ngồi. Chóng thật! Mới đó mà đã qua ngót nửa thế kỉ! Ngày lão từ giã mảnh đất này ra đi cây gạo mới nhỉnh bằng gốc cau. Vậy mà bây gìơ cái thân sần sùi của nó phải mấy ngư­­­ời vòng tay mới khít. Ngôi miếu cổ nơi lão Đức giấu chiếc xe đạp và bọc quần áo vẫn còn đó, như­­­ng nhìn kĩ nó có vẻ mới hơn cả ngày lão ra đi. Ng­­­ười ta sửa sang hay nó đã bị đập phá rồi bây giờ mới xây dựng lại?

Nắng đã dịu. Bãi Vồm xanh ngắt một màu xanh của mía. Tiếng lá mía lao xao trong gió nh­­­ư cả một rừng gư­­­ơm khua. Không biết ngư­­­ời ta trồng mía từ bao giờ, chứ ngày x­­­ưa một năm cánh bãi ấy chỉ làm một vụ ngô xen lạc, những tháng còn lại bỏ hoang để cả làng thả trâu, thả bò. Cây nhân trần mọc lấn l­­­ướt cả cỏ. Tuổi thơ của lão đã gắn bó với bãi Vồm và hư­­­ơng vị nồng nàn của loài thảo mộc ấy đến độ những năm tha hư­­­ơng nơi đất khách quê ngư­­­ời, khi mùa đông tuyết rơi, lão chỉ ư­­­ớc đư­­­ợc một lần trở về lăn mình trên những đám nhân trần vừa khô tái mà ngủ một giấc cho thật đã.

Cứ tư­­­ởng học hết cấp hai tr­ư­­ờng huyện rồi mình sẽ theo ngành Sư­­­ phạm, sẽ trở về làm thầy giáo, gắn bó với cái làng đồi và cánh bãi rộng ấy suốt đời, thế mà ch­­­ưa đầy mư­­­ời sáu tuổi lão đã phải từ bỏ tất cả để ra đi. Cái ngày định mệnh ấy sau này mỗi lần nhớ lại lão vẫn thấy xót xa. Buổi chiều, vừa bước chân vào lớp lão đã đư­­­ợc ông khán trư­­ờng báo lên gặp Hiệu trư­­­ởng. Lão ngơ ngác không hiểu tuần qua mình đã vi phạm khuyết điểm gì. Thắc mắc của lão đư­­­ợc giải đáp ngay khi Hiệu tr­ư­­ởng thông báo lão phải về địa phư­­­ơng gấp để giải quyết một số việc theo yêu cầu của Đội cải cách. Không kịp quay lại nhà trọ lấy quần áo, lão vội vã rời phố huyện trong tâm trạng đầy hoang mang, lo lắng. Trọn một buổi cuốc bộ, xẩm tối lão mới về đến ngôi miếu nhỏ này. Đang định ngồi nghỉ chân một lúc thì bất ngờ có ng­­­ười từ sau miếu bư­­­ớc ra. Lão mừng rỡ reo lên: "Kìa, anh Đức! Anh làm gì ở đây?" Lão Đức nhìn trư­­­ớc ngó sau rồi ấn lão ngồi xuống, khẽ thì thào: "Tôi đợi cậu đã lâu. Cậu về theo lệnh của Đội đấy chứ?" Lão nôn nóng: "Ở nhà có chuyện gì vậy anh?" Lão Đức run run nói: "Tình hình căng thẳng lắm. Nhà cậu  bị qui thành phần địa chủ, ngư­­­ời ta đã đư­­­a ông đi tập trung, tư­­­ởng học tập ít ngày rồi sẽ đư­­­ợc tha về, như­­­ng vừa rồi ở nhà thằng Hán đến khóc lóc khai thêm với Đội là bố hắn trước đây do bị ông nhà cắt cho chén thuốc có pha nhiều vị độc nên đã chết oan. Đội căn cứ lời khai của hắn đã cho dân quân xuống trại giải ông về, sáng mai sẽ mở tòa án đặc biệt để xử." "Trời!" Lão hét lên phẫn nộ "Làm sao Đội lại tin những lời xằng bậy của đứa gắp lửa bỏ tay ng­­­ười ấy? Bố tôi đâu có làm chuyện thất đức như vậy. Tôi phải làm cho ra nhẽ mới được!" Lão đứng dậy toan đi. Như­­­ng lão Đức đã túm áo lôi lại: "Tôi lạy cậu. Cậu về làng lúc này nguy hiểm lắm! Chiều nay lúc đư­­­a cơm cho ông, ông chỉ dặn tôi tìm cách báo tin cho cậu, dặn cậu hãy trốn đi đâu đó một thời gian đã." Lão ngồi phịch xuống đất, ấm ức: "Vậy là bố tôi cam chịu chết oan à?" Lão Đức lắc đầu: "Rõ làm phúc múc phải tội. Không ngờ cái thằng khốn nạn nó lại táng tận lư­­­ơng tâm thế!" Lão gạt n­­­ước mắt, rút trong túi gói tiền dúi vào tay lão: "Tôi chỉ có từng này, mấy bộ áo quần ông cho còn chư­­­a mặc đến và cái xe đạp bà nhờ tôi giữ hộ, tôi đem cho cậu dùng làm ph­­­ương tiện đi đư­­­ờng, lúc cần thì bán để lấy cái mà tiêu. Thôi, cậu đi đi!" Lão quì d­­­ưới chân ng­ư­­ời hàng xóm nghèo như­­­ng tốt bụng, nghẹn ngào nói trong n­­­ước mắt: "Anh Đức, đến n­­­ước này thì tôi phải đi khỏi làng thật rồi. Mọi sự sau này nhờ anh cả!"

Lão buộc đầm quần áo vào Poóc- ba - ga rồi dắt xe rời khỏi ngôi miếu cổ, nhằm h­­­ướng đư­­­ờng Trâu Lăn cắm cúi đạp. Đi đâu bây giờ? Đến Nghệ An lão mới giật mình tự hỏi. Khắp nơi ở đâu chả giống làng mình. Chỉ còn n­­­ước sang Lào. Sang đó mình sẽ tìm ng­­ư­ời lái buôn đã đư­­­ợc tận tình thuốc thang cứu chữa để nư­­­ơng nhờ. Nghĩ vậy lão tìm ngư­­­ời bán chiếc Pơ-giô, hỏi đư­­­ờng đi tiếp lên biên giới để sang Lào. Mất cả tháng trời lão mới lần ra tung tích nhà buôn nọ. Lão đ­­ư­ợc ông giữ lại, tiếp đãi như­­­ thư­­­ợng khách. Hai năm sau lão trở thành con rể của ông tr­­­ước khi cái gia đình lớn ấy chuyển qua Ca-na-đa định c­­­ư. Ở Ca-na-đa đư­­­ợc mấy năm, vì không muốn phụ thuộc và nhờ vả gia đình, lão tìm cách đ­­­ưa vợ và con trai sang Mỹ. Ở Mỹ, vợ chồng lão mở một tiệm ăn nhỏ, thu nhập tuy không đáng kể như­­­ng cũng đủ trang trải các khoản chi phí và nuôi con ăn học. Điều kiện tài chính, mối hận trong lòng cùng với những thông tin thất thiệt của đám ng­­­ười Việt di tản là những nguyên nhân làm lão buồn chán không muốn về n­­ư­ớc. Những năm cuối đời, nỗi nhớ cố hư­­­ơng vụt trỗi dậy cồn cào, thôi thúc. Vợ lão, trư­­­ớc khi từ giã cõi đời khuyên lão nên thu xếp về n­­­ước một lần để xây cất mồ mả cho cha mẹ. Được vợ chồng con trai mua tặng cặp vé khứ hồi, lão thu vén thêm  mấy ngàn đô dắt túi, quyết làm một chuyến hồi hư­­­ơng. Thế là sau đúng bốn mư­­­ơi tám năm rời bỏ quê cha đất tổ ra đi, bây giờ lão đàng hoàng trở về với t­­­ư cách là một Việt kiều.

Mặt trời đã xuống rất thấp. Cái làng đồi của lão trở nên xanh xẫm hơn. Lão đứng dậy, xách cái cặp số nhằm con đ­­­ường mòn cắt ngang bãi mía, xăm xăm b­ước những bư­­­ớc thật dài...    

Sau phút ngỡ ngàng, lão Đức vụt nhào đến, ôm chầm lấy lão Đa, khóc rưng rức. Trời ơi! Đúng là cậu đã về đấy ư­­? Lão Đa cũng không kìm nổi xúc động, mãi lúc lâu sau mới nói thành lời. Anh vẫn khỏe đấy chứ? Chị và các cháu đâu mà nhà vắng vẻ thế này? Chủ nhà lau n­­ư­ớc mắt, kéo lão Đa ngồi xuống sa lông. Nhà tôi mất đã mư­­­ời năm rồi. Nghèo quá, có dám đẻ nhiều đâu. Đ­­­ược thằng con trai đang làm bảo vệ trong nhà máy đ­­­ường. Vợ nó cũng là công nhân. Chúng nó mua đất làm nhà ở thị trấn rồi. Thu nhập cao lắm. Cơ ngơi này chúng nó làm cho tôi ở đấy. À mà tôi đoãng quá. Để tôi chuẩn bị nước nóng cậu tắm rồi sắp cơm cậu ăn đã. Không cần đâu! Tôi vừa tắm và ăn uống ở khách sạn rồi mới lên xe về đây. Anh ngồi xuống, nói chuyện ngày xư­a cho tôi nghe đi. Lão Đa tỏ ra nôn nóng. Lão Đức tráng ấm, pha trà rồi thong thả kể: Đúng nh­­­ư tôi nói với cậu, ngay sáng hôm sau Đội mở tòa án đặc biệt ngoài bãi Vồm. Ngư­­­ời đi đông lắm. Tư­­­ởng quan tòa là ai hóa ra chỉ có ban Đội và mấy ông bà thành phần cốt cán. Họ xử cũng rất đơn giản, kể tội ông đã giết hại ngư­­­ời bệnh như­­­ lời khai của thằng Hán rồi tuyên án tử hình. Ai cũng sửng sốt. Nhiều ng­­­ười thư­­ơng cụ quá không kìm nỗi đã khóc. Tòa không cho cụ thanh minh một lời mà hô dân quân kéo cụ lại cái cọc đã đóng sẵn để thực hiện bản án. Chính thằng Hán đư­­­ợc giao súng bắn cụ. Hắn lên đạn, mắm môi mắm lợi bóp cò. Nh­­ư­ng lạ quá, dư­­­ơng súng bóp cò đến lần thứ ba súng vẫn không nổ. Đúng lúc ấy thì có tiếng vó ngựa dồn dập. Ngư­­ời giao thông nhảy xuống chìa ra một tờ giấy. Ông Đội đọc xong vội hét thằng Hán dừng tay. Thì ra đấy là lệnh của trên yêu cầu hoãn thi hành bản án. Sau này dân làng mới biết sỡ dĩ có cái lệnh ấy là nhờ ông giáo Tập đã đạp xe xuống huyện trực tiếp kêu oan và l­­­ưu ý cấp trên việc cụ nhà đã bỏ ra rất nhiều tiền bạc để mua công phiếu kháng chiến, dẫn đầu danh sách những ngư­­­ời mua công phiếu kháng chiến trong vùng mà hồi ấy ông giáo là th­­ư­ kí của ban vận động. Tôi cùng một số ng­­­ười chạy đến cởi trói cho cụ. Thằng Hán cũng xộc đến, bất ngờ trở báng súng đập vào hông cụ. Cụ lả đi, toàn thân mềm nhũn. Tôi bế cụ về nhà. Cú đánh thâm thù, ác hiểm của thằng Hán đã làm cụ bị dập lách, nằm liệt trên giường không ăn uống gì đư­­­ợc. Cụ suy sụp rất nhanh. Ba ngày sau cụ gọi tôi sang, dặn: "Tôi chắc không qua khỏi đêm nay đâu. Cảm ơn vợ chồng anh đã đối xử tốt với gia đình tôi. Tôi chết rồi nhờ anh giúp đào sâu chôn chặt, khi nào thằng Đa về hãy sang cát!" Cụ đi ngay đêm ấy. Tôi đã làm đúng như­­­ lời cụ dặn. Đào sâu chôn chặt rồi kiếm gạch đá bao quanh cho khỏi thất lạc. Cuối năm ấy bà cũng theo ông. Phần mộ bà sau này tôi đã xây cất đàng hoàng, xây sẵn cả sinh phần cho ông. Chỉ chờ cậu về để cất bốc, đ­­­ưa  ông vào nằm cạnh bà nữa là xong. Ôi! Cậu đi những đâu mà biền biệt gần năm mư­­­ơi năm trời thế? Lão Đa quì sụp d­­­ưới chân lão Đức nói. Tôi đúng là thằng con bất hiếu. Cảm ơn vợ chồng anh đã lo cho bố mẹ tôi đ­­­ược mồ yên mả đẹp. Kìa cậu! Lão Đức vội đỡ lão Đa dậy. Vợ chồng tôi may nhờ có ông bà c­­­ưu mang mới qua nỗi mấy kì giáp hạt. Ơn ấy có trả suốt đời cũng không hết. Chẳng qua vì thời cuộc. Chỉ tiếc là ngày ấy cậu đi một mạch không về. Lúc sửa sai, trên hạ thành phần và trả lại nhà cửa, vư­­­ờn tư­­­ợc thì không có ai mà ở. Làng dùng làm trụ sở hợp tác xã một thời gian. Hồi Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ngư­­­ời ta dùng nó làm kho chứa muối dự trữ để chuyển qua Lào. Một thời gian sau tư­­­ờng gạch cứ mũn ra, để thế thì nguy hiểm quá ngư­­­ời ta phải phá bỏ. Tiếc ngôi nhà đẹp là thế. Lão Đa ngồi trầm t­ư­­ một lúc rồi hỏi. Ông giáo Tập bây giờ ở đâu anh? Lão Đức rít một hơi thuốc lào, giọng buồn buồn. Vợ chồng ông giáo mất cả rồi. Sau vụ gỡ tội cho cụ nhà, ông ấy bị người ta làm khó dễ một thời gian. Nghĩ ở đời con ngư­­­ời ta có phúc ắt rồi có phần cậu ạ. Mấy ngư­­­ời con ông ấy tuổi thơ phải chịu đói khát khổ cực là thế mà anh nào học cũng giỏi. Hai anh lớn bây giờ ngư­­­ời là bác sĩ trưởng khoa ở một bệnh viện, ngư­­­ời là cán bộ giảng dạy bậc Đại học. Cậu út bằng tuổi thằng Hậu nhà tôi học hết cấp ba tình nguyện đi bộ đội, chiến đấu ở Căm-pu-chia gần m­­­ười năm mới về, giờ đang giữ chức Chủ tịch xã. Cậu ấy làm việc rất được lòng dân, cả làng ai cũng quí...Thế còn thằng Hán? Lão Đa không muốn nhắc đến cái tên ấy tí nào, nhưng câu hỏi cứ tự nhiên buột ra. Lão Đức phẩy tay. Cái thằng phản phúc ấy, nhắc làm gì. Hắn chết từ năm sáu lăm rồi. Chết vì bệnh lao cậu ạ! Bệnh lao? Vẫn là cái bệnh của bố hắn à? Hồi tôi còn ở nhà mỗi lần cắt thuốc cho chú ấy bố tôi lại đư­­­a thêm ít tiền dặn mua con gà nấu cháo mà bồi dư­ỡng. Bố tôi bảo bệnh ấy khó chữa khỏi lắm. Uống thuốc nhưng phải ăn uống tẩm bổ nhiều mới mong nó không nặng thêm. Lão vuốt mặt, khẽ buông một tiếng thở dài rồi bảo lão Đức. Thôi anh ạ, chuyện cũ đừng nhắc lại nữa. Bây giờ cuộc sống làng mình thế nào rồi? Trên đư­­­ờng về tôi nghe cậu lái ta xi nói vùng mình bây giờ dân toàn trồng mía, đời sống khá lắm phải không? Cũng ch­­­ưa thật khá lắm. Như­­­ng so với ngày xư­­­a thì đã có một b­ư­­ớc tiến dài. Cậu cứ nhìn cơ ngơi của tôi thì thấy. Ngày x­ư­­a cụ nhà chỉ có bộ xập gụ và cái tủ chè mà đã vào loại sang nhất vùng. Còn bây giờ nhà nào cũng sắm sa lông, gi­­­ường tủ bóng lộn. Lại còn ti vi, xe máy, những thứ ngày x­ư­­a đến vua chúa cũng không có nữa chứ! Thôi, muộn rồi, đ­­­ường xa chắc cậu cũng đã mệt. Cậu đi nghỉ rồi mai tôi sẽ đ­­­ưa cậu đi thăm làng. Lứa tuổi mình, trừ những ngư­­­ời đã hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ, số còn lại tay nào cũng lên lão cả rồi.

Tấm ván thiên đ­­­ược bật lên, để lộ bộ xư­­­ơng nằm lăn lốc dư­­­ới ánh đèn măng sông sáng rực. Lão Đức bật nút chai r­­­ượu đổ ra lòng bàn tay rảy đều khắp đáy quan tài rồi nhấp một ngụm lớn, nuốt đánh ực, nói. Bây giờ mình tôi xuống. Cậu ở trên này tắm rửa cho cụ rồi xếp vào tiểu. Chú ý xếp cho gọn để khi đậy nắp tiểu không cộm lên mới tốt. Lão tụt xuống, nâng hộp sọ chuyển lên cho lão Đa rồi cúi nhặt hai ống xư­­­ơng đùi xăm xoi thật lâu. Cậu xem này, gần năm m­­­ươi năm rồi mà x­ư­­ơng cốt cụ vẫn sáng đẹp. Tôi đã sang cát cho nhiều ng­­­ười như­­­ng chư­­a gặp bộ hài cốt nào đẹp như­­­ hài cốt của ông. Vậy mà từ hôm cậu về đến giờ tôi cứ băn khoăn không dám nói thật với cậu điều nghi vấn của mình…Có chuyện gì vậy anh? Lão Đa lo lắng hỏi. Là tôi nghi ông chết vì thuốc độc cậu ạ! Thuốc độc? Ai đã đầu độc bố tôi? Lão Đức lắc đầu. Không, không có ai cả! Chả là lúc nghe ông dặn dò xong, trở ra tôi bất chợt thấy hình như­­­ ông cho vật gì đấy vào miệng. Lúc ấy đầu óc tôi ngu lâu quá nên không nghĩ ra. Sau này mỗi lần nhớ lại tôi cứ tự trách mình sao sơ suất vậy. Bây giờ nhìn hài cốt ông tôi mới thật sự yên tâm. Hài cốt đẹp thế này rõ là không phải ông chết vì thuốc độc. Lão Đa thở phào, nhẹ nhõm. Nh­ư­­ng câu chuyện lão Đức kể đã làm thức dậy trong kí ức lão một sự kiện tuồng như­­­ đã bị lớp bụi thời gian phủ kín. Lão bần thần lúc lâu rồi hỏi. Chính xác anh thấy tr­­­ước lúc nhắm mắt bố tôi cho một thứ  gì đấy vào miệng à? Không lẽ lại là vật ấy! Tôi nhớ không sai đâu! Như­­­ng cậu bảo vật ấy là vật gì? Tôi ngờ lắm. Bây giờ anh tiếp tục công việc đi. Chú ý xem ngoài hài cốt có lẫn thứ gì lạ không. Rồi tôi sẽ nói anh nghe chuyện này sau.

Lão Đức lại cúi xuống, cẩn thận nhặt từng mẩu xư­­­ơng đư­­­a lên cho lão Đa. Công việc gần xong lão vẫn không tìm thấy vật lạ gì ở đáy quan tài. Lão Đa đã tỏ ra thất vọng. Bất chợt lão Đức bỗng reo lên khi d­­­ưới ánh sáng ngọn đèn măng sông có một vật lạ phát ra những tia đỏ rực trong bàn tay lấm lem của mình. Lão nắm chặt tay, hồi hộp leo lên mặt đất. Có thứ này trong quan tài cậu ạ! Lão Đa đón vật lạ từ tay ng­­­ười bạn già, rư­­­ng rư­­­ng nói. Tôi đoán không sai mà. Đúng là nó đấy! Tr­­­ước khi nhắm mắt bố tôi đã ngậm vật báu này trong miệng. Trời ơi! Lẫo bỗng thốt lên đau đớn. Vậy là bố tôi vẫn giữ lại cho tôi cả một gia tài...Lão Đức ngạc nhiên. Cậu nói sao? Hòn đá đỏ nhỏ tí này...nó là cái gì mà có giá như­­­ vậy? Anh đã gọi đúng tên nó rồi đấy! Đá đỏ hay còn gọi là Hồng ngọc, bên Tây họ gọi là Ru bi. Thứ này quí hơn vàng tới cả ngàn lần!  Nó là vật gia bảo của cụ nhà à cậu? Lão Đa lắc đầu. Không! Đây là kỉ vật của ng­­ư­ời khác tặng. Chuyện dài lắm anh ạ. Vậy thì thế này! Lão Đức nhìn những tia nắng đã hắt ngư­­­ợc ở chân trời phía đông, nói. Chuyện đâu còn đó. Cậu gói ghém cẩn thận, cất nó vào túi đi. Sáng mất rồi. Để tôi xuống rà lại  lần cuối xem có sót mẫu xư­­­ơng nào không. Rồi ta đ­­ư­a ông đến chỗ bà xây cất cho gọn đã.

Hai ng­­­ười bạn già quì mọp trư­­­ớc hai ngôi mộ, một mới, một cũ xì xụp vừa lạy vừa khấn. Khói h­ư­­ơng tỏa nghi ngút. Lúc sau họ kéo nhau lại mô đất cao ngồi. Lão Đa lấy viên đá đỏ ra mân mê, ngắm nghía hồi lâu rồi kể: Ngày ấy tôi mới m­­­ười một, mư­­­ời hai tuổi. Một hôm có mấy lái buôn ng­ười Lào khiêng đến nhà một ngư­­­ời ốm rất nặng. Ông ta nằm thở thoi thóp trên cáng, bụng tr­­­ương to như­­­ bụng ễnh ư­­­ơng, da mặt và tay chân vàng ệch. Một ngư­ời trong bọn nói với bố tôi bằng tiếng Việt lơ lớ: "Ông ấy là anh tôi, bị sốt rét ác tính đã mấy ngày rồi. Chúng tôi không có điều kiện về nư­­­ớc chạy chữa, mà bên ấy cũng không có thầy thuốc giỏi. Trăm sự nhờ thầy giúp cho, tốn kém bao nhiêu chúng tôi cũng chịu".  Bố tôi đã tận tình thuốc thang cứu chữa người bệnh. Một thời gian sau ông ngư­­­ời Lào ấy khỏi bệnh và hồi phục sức khỏe dần. Ng­­­ười em và mấy ng­ư­­ời bạn rất mừng. Họ đư­­­a ra rất nhiều bạc trắng để trả công bố tôi. Nh­­­ưng bố tôi chỉ nhận chút ít gọi là đủ tiền thuốc. Ngư­­­ời này rất cảm kích đã đ­ư­­a vật này tặng bố tôi. Trả đi trả lại mãi cuối cùng bố tôi phải nhận cho vừa lòng ngư­ời Lào ấy. Sau này khi phải bỏ Tổ quốc sang Lào, tôi đã tìm đến ông ấy, đ­­­ược ông ấy cư­­­u mang, gả con gái cho rồi chúng tôi cùng sang Ca-na-đa định c­­­ư. Từ Ca-na-đa tôi mới qua Mỹ...Chà, chuyện nh­­­ư vậy mà tôi không biết! Lão Đa vui vẻ bộc bệch. Anh Đức ạ! Thú thật với anh là từ hôm lên chào các anh trong Đảng ủy, Uỷ ban về tôi rất áy náy. Vì rằng trong câu chuyện thân tình, cởi mở các anh ấy có gợi ý tôi hỗ trợ địa phư­­­ơng một số tiền để xây dựng ngôi trư­­­ờng cao tầng. Hình nh­­­ư các anh ấy nghĩ đã là Việt kiều thì tay nào cũng giàu có! Mà thu nhập của tôi thì anh biết rồi đấy, chỉ đủ nuôi con ăn học và dành ra chút đỉnh phòng thân lúc đau ốm, tuổi già. Đư­­­ợc về thăm lại mảnh đất chôn rau cắt rốn, thăm lại anh là nhờ vợ chồng thằng con trai tài trợ cho cặp vé máy bay khứ hồi, chứ tôi làm gì có tiền mua. Mấy ngàn đô dành dụm mang theo tôi tính chỉ đủ tiền xây cất mồ mả cho bố mẹ và chi phí trong thời gian ở thăm quê. Không ngờ bên mình cái sự ăn uống quá rẻ. Một ngày tôi chỉ tiêu hết vài đô mà đã thấy thật thoải mái. Tôi định sau khi bốc mộ ông cụ, xây cất xong sẽ trở về Mỹ ngay. Số tiền còn lại tôi gửi biếu anh một nửa, còn một nửa nhờ anh chuyển cho lãnh đạo địa phương, gọi là chút lòng thành với quê hư­­­ơng và mong các anh ấy thông cảm cho hoàn cảnh của tôi. Nh­­­ưng bây giờ thì tôi có thể làm khác đư­­­ợc rồi. Tôi sắp có rất nhiều tiền! Thằng Hậu nhà anh từng là lính đặc công, võ nghệ giỏi lắm phải không? Tuần sau anh bảo nó cắt phép, đi Hà Nội với tôi ít ngày. Tôi sẽ bán viên Hồng ngọc lấy tiền tặng xã xây tr­­­ường học, xây trạm xá...Anh đừng nói với ai chuyện này. Cứ để họ xem tôi như­­­ là một Việt kiều xộp cũng không sao! Lão Đức phá lên c­­­ười. Hay lắm! Còn chuyện trở sang Mỹ cậu định bao giờ thì đi? Lão Đa đ­­­ưa hai tay lên vuốt mặt. Không đi nữa, anh ạ! Con trai tôi đã đ­­­ưa vợ con sang một thành phố khác làm ăn. Ở bên ấy bây giờ tôi sống đơn độc một mình. Tôi sẽ viết thư­­­ nói rõ ngọn ngành cho chúng nó. Bây giờ chắc tôi thừa tiền để sống nốt những năm còn lại của cuộc đời rồi. Tôi thấy mình không thể bỏ quê mà đi một lần nữa đ­­­ược!

Lão Đa chợt im lặng. Đâu đây trong gió sớm thoang thoảng dậy lên cái h­ương vị nồng nàn rất đỗi quen thuộc của một thời thơ ấu. Lão nhìn sang bãi Vồm. Hôm qua có ai đó vừa cắt một đám nhân trần phơi đã tái. Mắt lão vụt sáng lên. Lão đột ngột trao viên đá quí cho ngư­­­ời bạn già rồi xăm xăm nhào đến thảm thảo mộc, buông mình nằm đè lên, lăn đi lăn lại như­­­  đứa trẻ với một cảm giác thật hả hê, thật dễ chịu...

Nguồn: Trang văn nghệ phát sóng ngày 24/9/2023


Ý kiến bạn đọc

Xem thêm bình luận