Đường dây nóng: 0237 3721150
Podcast 26/12/2025 09:00

Đọc truyện: “Thầy Bèo” | Từ Nguyên Tĩnh

Mời quý vị và các bạn truyện ngắn “Thầy Bèo” của nhà văn Từ Nguyên Tĩnh qua giọng đọc của Lê Dung.

Làng tôi nằm ven hồ Bàn Thạch, có ba lăng vua nhưng không ai còn biết ở nơi đâu, các cụ bảo bây giờ là nghĩa trang của xã. Làng có nhiều đền thờ, đình chùa nhưng dạo mới hòa bình đã phá giờ cũng không còn chiếc nào. Có nhiều chuyện ma quái, quỉ thần người già người trẻ vẫn truyền lại. Nhưng người để lại nhiều chuyện vẫn là bác Bèo của tôi. Người ta kể nhiều chuyện về bác. Họ kể theo người khác kể lại, cũng có khi được chứng kiến hẳn hoi. Chung qui cũng là chuyện bói toán của bác. Họ đem bác ra khoe, mà không riêng gì họ, thời gian là lính tôi cũng hay đem bác ra khoe với bạn bè. Tôi cũng thấy oách khi kể những mẩu chuyện kỳ dị này. Thật hiếm có người nào trong làng mà được tôn sùng như bác. Là chưa nói ở trong huyện, tận đâu đâu người ta cũng nhận là có được "thày" xem bói, chẳng hiểu họ được gặp thày chưa, nhưng họ cứ kể, thành thử nghe ra bác như một huyền thoại.

Thày Bèo, mất lâu rồi, nhưng chuyện của thày cứ in đậm trong tiềm thức dân làng. Thật ra đời phong chức "thày" cho bác. Thày là người có thật, mắt mù. To cao nhất làng nhưng lấy phải vợ là bác gái họ tôi xấu ơi là xấu. Người ta bảo bác không có mắt nên chẳng cần thấy xấu hay đẹp. Tôi không tin tưởng lắm, có lúc định hỏi bác mà không dám. Đôi lúc ngồi chầu rìa được bác bình luận về xấu, đẹp như một thứ hoang đường, sâu xa, trời định từ đẩu đâu trên vũ trụ hoặc dưới sâu chín tầng đất, thật bí hiểm nhưng có vẻ tắc tị hay đáo để. Nhất là bác luận về nàng Kiều, cái tài lẫn trong cái tình, cái tình ngấm trong cái bản tính đong đưa đĩ bợm của loài người, nghe cứ lạnh toát người vì nể sợ, nhưng sướng cái lỗ tai.

Từ lúc còn nhóc con, mấy cái cối xay người ta lấy mất hay đưa gạo đến giã nhờ cối nhà bác. Nhưng thật ra thích nghe lỏm bác bói toán. Ông giúp cho mà biết nhà có ma quỉ, động mồ động mả, con gái lộn chồng... thôi thì đủ chuyện. Tôi vốn nghịch ngợm, sợ ma nhưng không tin cái gì ráo... Người ta bảo bác có thể nghe tiếng bước chân mà đoán đó là ai. Tôi đánh liều thử tài bác xem sao. Đi học về dốc sông, thấy bác đang quăng gậy đi trên bờ đê, bắt chước giọng mấy ông cụ Nghệ:

- Chào bạc... à à!

- Vâng! Chào anh! - Bác Bèo đáp lại giọng trịnh trọng, mắt như cười cười...tay không ngớt tung cái gậy mây xoong bóng lộn như một tên lính dò đường.

Tôi phải cố bụm lấy miệng, sợ cái gậy bịt đồng của ông lia vào người.

Không tin nhưng tôi sợ, vì thế gian này cứ ùn ùn kéo đến nhà ông hỏi mọi chuyện. Mà có phải đâu người ít học, nghe nói có cả mấy ông giáo vì thất tình, lâu lên lương... thì thào, lau nước mắt, rồi cúng và đến tạ thầy.

Dạo tôi đi lính về qua nhà, anh con rể của bác, kéo tôi vào xó chày, đưa ra một tờ báo nói: - Đây Bác của mày lên báo rồi! - Tôi thấy một tít được khuôn lại để nhấn mạnh: "Thầy Bèo... tên phản động mê tín dị đoan". Cũng vì có bố vợ là kẻ từng bị quy là phản động mà anh con rể đang là một đảng viên kết nạp từ kháng chiến đã bị xóa tên khỏi đảng, cho nó trong sạch. Lúc tôi về đơn vị thì nghe tin ông bị bắt vào nhà đá. Nghe nói ông được học chính trị. Lại nghe nói có vài tên anh chị cùng ngồi tù với ông quỳ lạy tôn ông là đại ca, xin học lỏm nghề bói nhưng ông không cho. Ông chỉ chọn một vài đứa có đức hạnh chỉ vẽ cho vài bài, ông nói làm nghề bói toán cũng phải có cái đức, chứ mà bịa đặt làm hại người ta thì tội không để đâu cho hết. Ông bảo đến tháng nọ, ngày kia được tha tù, y như lời, mãn hạn tù cũng kiếm được ăn ở đâu tận rừng rú.

Thời đó, người đi lính đông, con đi xa không nhận được thư từ, muốn biết sống chết ra sao nên mới đến hỏi, ai bảo bác cả gan dám nói rằng họ chết, đi tù là phải oan uổng gì. Có người nói vậy, tôi tin vậy. Nhưng có bà ở Xã Đống lại nói với tôi, con báo tử rồi mà vẫn đi bói, bác bảo không chết, mấy tháng sau nó lù lù trở về. Người ta oán trách cái anh cán bộ kia, là quan liêu bịa tạc. Người ta khen bác Bèo tài quá.

Nhưng lúc bác Bèo ra tù có người đồn, ông đã cả gan bói cho anh cán bộ nọ: - Ông cứ về nhà đêm nay đi, nhà ông sẽ có sự lạ... Ông cán bộ coi trại giam bí mật lẻn về nhà, vớ ngay vợ và lão phó chủ nhiệm hợp tác xã đang thớt trên đè thớt dưới...

Lại còn chuyện cán bộ đóng giả người đi bói, nhưng bác Bèo cũng nhận được ra... Tiếng một đồn mười, mười thành trăm, uy tín của bác nổi như cồn.

Tôi không tin ông, nhưng ông lại chi phối mọi chuyện của gia đình tôi. Sau này, khi số phận đè nặng lên cổ, gặp hồi đỏ con đen, tôi không tin được có ai hiểu mình bằng bác Bèo.

Năm ấy pháo ở trận địa Hàm Rồng được kéo đi đại tu, nên tôi được tranh thủ về phép mấy ngày. Được vài ngày phép, anh lính nào chẳng đi khắp làng xóm làm "dân vận". Mặc dù chỉ là anh hạ sĩ quèn nhưng không thăm thú bà con thấy nó trái trái thế nào.

Tôi đến bác Bèo. Mắt lấm la lấm lét nhìn trước ngó sau xem có ai thấy lại đánh giá mình là bộ đội mà mê tín dị đoan. Giá rổ quái chì, mi là cháu tao đến với bác chứ sợ gì điều tiếng. Bác cháu chào hỏi xong, ông mới "độp" tôi một phát.

- Mi đang yêu bọn con gái hả cháu!

- Răng bác biết?

- Cha tổ mi dấu tao sao được.

- Được không bác? - Tôi lo lắng hỏi bác.

- Tuổi hắn bao nhiêu? - Ông xoè hai bàn tay ngón mập như quả chuối ngự ra bấm:

- Được đấy cháu ạ! Tôi chờ đợi ý kiến của bác một cách sợ sệt. Vì lỡ ông bảo không được tôi có dám từ bỏ người yêu mình không? Điều ông nói ra làm nghẹn ngào trái tim tôi. Chiến tranh khốc liệt nhưng đó là niềm động viên hàng ngày của người lính. Nhưng tôi không dám hỏi bác xem số của mình có chết không. Không ai lại điềm nhiên được khi mình sẽ chết vào một ngày tháng nào đó. Bác Bèo dường như cũng cố tránh câu hỏi ấy, lỡ tôi hỏi bác bảo chết thì sao, vì sợ chết mà tôi thành kẻ hèn nhát chăng?

Hết chiến tranh, tôi lành lặn trở về làng. Người gặp đầu tiên ở dốc cầu là bác Bèo. Bác chống gậy chít khăn xếp đi ăn giỗ ở làng Bồng. Nghe tôi chào, vẫn thói quen đầu ngẩng nhìn trời cao, đôi mắt như nhìn ở trên cao, xa lắm, lắc lắc cái đầu điểm theo nụ cười:

- Bác biết rồi, cái số của mi về năm nay!

Bao lần tôi chờ đợi có quyết định chuyển ngành, nhưng đều thất vọng. Ai cũng hứa hẹn chờ đợi. Thời ấy, không ai nghĩ có người ăn hối lộ. Và mấy ai ngả tay ra lấy tiền, con người còn trong sáng đến lạ lùng. Biết được tâm trạng rối bời của tôi, bác mới khuyên:

- Bác đố cháu đi thoát được trong năm nay!

Những lúc rảnh rỗi tôi thường sang uống trà cùng bác, hỏi han về số kiếp của mình. Bác chẳng nói gì chỉ cười ra chiều hài hước về sự nôn nóng của tôi. Có phải là sự khích lệ cho tôi vào chốn học hành. Khi nghe tin tôi đi học văn chương ông nói giọng buồn rầu:

- Họ này chỉ biết võ biền, cày cuốc mà cháu học văn chương...

- Biết làm sao được bác!

- Rồi nắm chắc cái khổ con ạ!

Người ta nói bác mê tín, người ghét bác cũng hùa theo, ai biết mò đâu ra những điều nơi cửa miệng. Như dạo nghe tin tôi hy sinh, mẹ tôi đã đến hỏi bác. Bác cả quyết có cho vào cối giã nó cũng không chết. Chính đó là niềm động viên cho mẹ tôi sống chờ con mình trở về.

Nhưng sự đời lại không ai ngờ được. Tôi sắp ra trường thì mẹ tôi nhắn về gấp. Bà gạt nước mắt kể, mẹ nằm mơ thấy anh tôi về kêu chân đau. Chị dâu tôi nói thêm vào, có con cú nó chạy từ gian buồng chị. Nhà tôi ai cũng lo có điềm gở xảy ra. Thương mẹ, thương chị tôi lại đến hỏi bác xem anh mình chiến đấu tận nước Căm - pu - chia thế nào. Bác vẫn ngồi xếp bằng người phốp pháp trên chiếc phản lim, dường như không suy nghĩ, dằn những đồng tiền trinh vào chiếc đĩa có cành trúc. Bàn tay ông rờ rẫm vào đồng tiền, rồi nói gọn lỏn: - Không việc gì!

Anh tôi đã hy sinh ở mặt trận tôi phải giấu mẹ tôi và bác Bèo, kẻo bác phật ý.

*

Ngày bác Bèo ốm cũng là năm tôi ra trường. Bác nằm, ở dưới đất còn rơi vãi mấy bãi phân đã bỏ tro nhưng không giảm mùi xú khí. Tôi ngồi lặng người bên bác, bàn tay của bác buồn nên hết sờ đầu, lại sờ tay tôi, có lẽ do thói quen, còn nét mặt bác lộ rõ sự vô cảm. Tôi lấy giọng của nhà tiên tri khuyên nhủ bác:

- Năm nay bác không việc gì đâu!

Bác cười, cái cười tươi mà ít khi tôi nhìn thấy. Bác mắng tôi: - Tổ cha thằng láu cá! Lập nghiêm nét mặt bác hỏi tuổi tôi, ông khuyên: - Không khéo mất của đấy cháu ạ! Đời người được mất là lẽ thường. Đừng buồn. Tôi về nói cùng vợ. Vợ tôi sa sầm nét mặt, anh đừng cho ai mượn máy ảnh nữa.

Tôi không mất máy ảnh nhưng lại mất đứa con. Tôi không tìm thấy nó đâu, thời gian còn lại của đời mình.

Bác Bèo của tôi cũng mất năm đó. Trước lúc lâm chung tôi đã gặp ông. Ông không muốn cho người khác nghe chuyện. Hai hốc mắt của ông trống trơ. Bộ mặt ngơ ngác nhìn lên thinh không như nghĩ ngợi. Bác từng thông làu kinh sử, từng rút số tử vi cho bao người, từng giúp người ta rời mồ rời mả cho khỏi động. Từng giúp người muộn chồng con, dò tìm duyên trắc trở, nhưng không biết được mình lúc nào ra đi.

Như sợ người khác nghe thấy, bác kéo tôi lại gần:

- Thần linh cũng như con người thôi. Thần nghèo thần thích quấy nhiễu. Thần quấy nhiễu thì mời thần đi!... Ai chết mà chẳng ra ma... ma đói mới thành tà... Người đói khát có lúc sinh làm càn... Sống ở kiếp người mà không được no cái bụng, có khác gì ma đói?

Bác Bèo cầm lấy tay tôi như tâm sự: - Thật hay không ở cái lưỡi. Đúng hay không ở cái lưỡi. Tin hay không ở cái tâm... Biết mà không dám nói mới là ác? Cháu bảo bác nói cho người khác biết, vợi đi cái lo là ác hay sao?

Tôi không dám hỏi, tại sao bác không tìm người nào để truyền lại sự kỳ diệu của bí mật mà loài người tìm kiếm. Nhưng tôi sợ bác buồn...

Sau này dù có gặp sự trắc ẩn của cuộc sống. Sự bôi nhọ và lừa gạt, sự vụ lợi và thói cơ hội của người đời cũng không làm tôi ngạc nhiên. Tôi không hề lo lắng trước số phận. Làm sao mà tin được họ, vì họ chẳng bao giờ bằng bác Bèo của tôi.

Nếu ai không tin cứ đến Bàn Thạch mà hỏi, mỗi người ở làng này sẽ kể một câu chuyện hay nào đó về bác. Có thể được nghe kể rồi kể lại, có thể do họ bịa ra như chuyện dân gian. Có lẽ cái mà bác Bèo được mọi người yêu quí, và sáng tác cho dài câu chuyện vì ông là bạn của họ, ông không đẩy người có mắt vào con đường mù loà./.


Ý kiến bạn đọc

Xem thêm bình luận