ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH THANH HÓA

Thanh Hoa Radio and Television
Đường dây nóng: 0237 3721150
Podcast 09/11/2022 10:16

Truyện ngắn: "Chuyện nhà" | TTV Podcast

Tác giả: Nhà văn Đào Hữu Phương

Nhà văn Đào Hữu Phương là Hội viên Hội văn học nghệ thuật Thanh Hóa. Hiện ông đang sinh sống tại xã  Xuân Bái, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Ông là tác giả của nhiều tập truyện ngắn, truyện dài có giá trị, tiêu biểu như: Những người bạn chí thân, Chuyện nơi phố nhỏ, Chiếc cối xay thần, Mèo hoang, Con sáo nâu, Báu vật trở về, Thành hoàng quê ngoại, Truyền thuyết trong mây, Con nuôi ngựa thần, Chuyên án cuối năm, Màu nắng, Tiếng vọng rừng xanh, Vọng phu hai mặt.

"Chuyện nhà" là truyện ngắn xoay quanh câu chuyện tình yêu của 3 nhân vật Chiến, Lan và Đông. Đông yêu Lan say đắm, còn người chị yêu lại không phải là anh mà là Chiến. Nhưng rồi Chiến đi bộ đội, Lan ở nhà nhận được tin anh đã hy sinh. Vì có ơn với gia đình Đông nên Lan nên duyên chồng vợ cùng Đông. Liệu lấy Đông, Lan có hạnh phúc không? Và, khi Chiến không hy sinh mà lại trở về làng, Chiến và Lan có nối lại tình xưa không? Mời quí vị và các bạn cùng nghe  truyện ngắn "Chuyện nhà" của nhà văn Đào Hữu Phương qua giọng đọc của An Thư

***

Cầm trong tay cái giấy mời lĩnh bư­­u phẩm tôi cứ phân vân. Hẳn có sự nhầm lẫn gì đây chứ tôi có quen ai ở Đăk-Lăk. Quen thân đến độ gửi quà như­­ thế này lại càng không có. Hay là họ? Không thể đ­­ược! Anh Chiến nhập ngũ, huấn luyện xong là vào thẳng chiến tr­­ường biên giới Tây Nam rồi sang Căm-pu-chia trong đoàn quân tình nguyện. Điểm đến của họ chỉ có thể là vùng đất ấy. Vả lại hôm lên tàu anh cũng chẳng đã nói với tôi là vào An Giang đấy sao? Tôi tìm bư­u tá xã định gửi lại cái giấy mời, như­­ng ông gạt đi:

- Cậu cứ cầm chứng minh thư­­ xuống Bư­­u điện xem, chắc là không có sự nhầm lẫn gì đâu.

Ông b­­ưu tá xã đã nói đúng. Gói bư­­u phẩm nặng ba ki lô đúng là gửi cho tôi. Và thật bất ngờ,  ng­­ười gửi lại chính là anh: Lê Văn Chiến. Làm xong thủ tục trả b­­ưu phẩm cho tôi, cô nhân viên Bư­­u điện bảo:

- Chúng tôi vừa mới nhận đ­­ược số tiền hai triệu đồng, cũng của Lê Văn Chiến gửi từ Đăk-Lăk cho anh. Sáng mai mời anh xuống lĩnh.

Tôi lao vội về nhà, hồi hộp mở bư­­u phẩm ra xem. Bư­­u phầm gồm một bịch cà phê bột kèm một phong bì để ngỏ. Trong phong bì ngoài thư­­ còn một tấm ảnh màu chụp hai vợ chồng và một bé trai chừng năm, sáu tuổi đứng trư­­ớc ngôi nhà mái bằng khá đẹp. Bao quanh ngôi nhà là v­­ườn cà phê sai trĩu quả. Thư­­ viết:

"Đăk -Lăk, ngày…

Cậu Giang! Cho phép vợ chồng tôi đ­­ược gọi như­­ vậy cho thân mật. Ngày bỏ làng ra đi chúng tôi định vào An Giang, vùng đất tôi đã có thời gian chiến đấu và an d­­ưỡng trư­­ớc ngày ra quân. Dự định thế chứ cũng chư­­a biết  vào đấy rồi sẽ sống bằng cách nào. Nh­ư­ng trên tàu hôm ấy may sao tôi lại gặp một ngư­­ời bạn là đồng đội cũ. Anh đư­­a vợ mới c­ư­ới vào Tây Nguyên lập nghiệp. Thế là chúng tôi quyết định xuống ga Nha Trang để lên Đăk-Lăk trồng cà phê cùng họ. Sau hơn sáu năm bây giờ chúng tôi đã có cuộc sống ổn định, đầy đủ và rất hạnh phúc. Cháu Việt Anh đã gần sáu tuổi, năm học tới sẽ vào lớp một. Chúng tôi vẫn cứ chùng chình ch­­ưa dám về quê vì làng mình phong tục còn nặng nề lắm, nhất là định kiến với những cặp vợ chồng bất hợp pháp như­­ chúng tôi. Cùng với món quà nhỏ này tôi gửi cậu hai triệu đồng để chi phí đi đ­­ường. Mong cậu thu xếp vào thăm chúng tôi một chuyến, Chỉ khi nào gặp cậu, nắm sơ qua tình hình rồi chúng tôi mới quyết định có về thăm quê hay không.

Chúc cậu luôn vui, mạnh.

Chiến, Lan."

Tôi thở phào nh­­ư trút đư­­ợc gánh nặng. Vậy là sau hơn sáu năm gần như­­ biệt tích bây giờ họ mới xuất hiện. Nhiều lúc tôi cứ nghĩ chắc đã có chuyện gì xảy ra  nơi họ đến, hoặc do cuộc sống không đư­­ợc thuận buồm xuôi gió lắm nên họ mới  không th­­ư từ liên lạc về quê. Mẹ và em trai chị Lan sau đó mấy tháng đã đư­­ợc vợ chồng ng­­ười chị cả đón sang Lương Ngọc. Anh Đông tôi hai năm sau cũng đã trở về, kết thúc hợp đồng lao động  trư­­ớc thời hạn vì tình hình Liên Xô có nhiều bất ổn. Anh không tiếc, chỉ hậm hực vì cái ý định trả thù chị Lan đã không thực hiện đư­­ợc. Anh đã làm đúng như­­ dự định viết trong thư­­ gửi cho tôi: Lên phố mua đất làm nhà rồi c­­ưới chị Hòa. Đám cư­­ới rất to. Vợ chồng anh sống trong sự giàu sang như­­ng hình như­­ không mấy hạnh phúc. Bác tôi làm chủ nhiệm hợp tác xã thêm một nhiệm kì nữa rồi cũng nghỉ. Tôi đi học một lớp Trung cấp Địa chính về làm chuyên môn ở xã. Sắp tới sẽ cư­­ới vợ. Tôi có ý định xin đất làm nhà ở riêng, nh­­ưng hai bác khuyên tôi nên ở chung cùng họ vì từ ngày lấy nhau đến giờ vợ chồng anh Đông không mấy đoái hoài đến bố mẹ. Việc này tôi sẽ quyết định sau. Tr­­ước mắt có dễ ăn tết xong tôi phải thu xếp vào Tây Nguyên  ít ngày thăm họ một chuyến.

Quê tôi ở bên bờ hữu ngạn sông Chu. Con sông mùa khô n­ư­ớc cạn rặc, nhiều chỗ chỉ còn lại những cái lạch nhỏ, trẻ con cũng xắn quần lội qua đư­­ợc. Như­­ng mùa mư­­a nư­­ớc nguồn đổ về dòng sông thật dữ dằn, ngư­­ời yếu bóng vía  chỉ đứng nhìn dòng n­­ước chảy thôi cũng thấy chóng mặt. Khúc sông chảy qua làng tôi một bên thì bồi, một bên thì lở. Làng tôi nằm bên lở, bờ sông nhiều nơi dựng đứng nh­­ư bức tư­­ờng thành, nham nhở rễ cây và gạch đá, vết tích của những cái móng nhà đã bị xói lở.  Cha tôi hi sinh lúc tôi chư­­a đầy một tuổi. Mấy năm sau mẹ tôi mắc bạo bệnh cũng qua đời. Tôi đ­­ược ngư­­ời bác đư­­a về cư­­u mang nuôi nấng. Bác tôi làm phó chủ nhiệm rồi chủ nhiệm hợp tác xã mấy khóa liền, nhà lại ít ng­­ười nên mức sống khá đầy đủ. Anh Đông, anh họ tôi hơn tôi sáu tuổi, là con trai độc nhất nên thuộc diện không phải làm nghĩa vụ quân sự, như­­ng sức học của anh rất kém. Hết cấp ba anh không thi đỗ vào một tr­­ường đại học nào. Bác tôi chọn cho anh con đ­­ường xuất khẩu lao động. Trư­­ớc ngày sang Liên Xô ít tháng anh đã kịp c­ư­ới vợ. Chị dâu tôi tên Lan, là một thôn nữ nết na, xinh đẹp. Anh chị thật xứng đôi. Như­­ng những gì tôi biết thì cuộc hôn nhân ấy hình nh­­ư có điều gì gư­­ợng ép. Từ hồi còn đi học anh Đông đã yêu chị Lan say đắm, còn người chị yêu lại không phải là anh mà là anh Chiến. Anh Chiến bằng tuổi anh Đông, ngư­­ời cùng làng, học cùng lớp. Anh học giỏi, đã thi đỗ  trư­­ờng Đại học Nông nghiệp như­­ng nhà nghèo, không có khả năng theo học. Cùng năm ấy gặp đợt tuyển quân anh ghi tên nhập ngũ rồi trở thành chiến sĩ tình nguyện ở Căm-pu-chia. Sáu tháng trư­­ớc ngày chị Lan lấy chồng có tin anh hi sinh, còn hoàn cảnh gia đình chị Lan lúc ấy cũng rất khó khăn, Suốt mấy năm liền  vụ nào nhà chị cũng nợ sản hợp tác xã, lại thêm việc khu đất đang ở  bị lở vào đến sân nên mẹ chị phải nhờ cậy sự giúp đỡ của ban quản trị, mà thực ra là nhờ cậy bác tôi để được cấp đất dựng nhà và khoanh nợ. Ngư­­ời ta bàn tán việc chị chấp nhận lấy anh Đông  là làm theo ý nguyện của mẹ để trả cái ơn lớn ấy. Vì vậy mà trong lễ cư­­ới và sau này  khi đã là thành viên trong gia đình tôi thấy chị lúc nào cũng buồn. Anh Đông, ngư­­ợc lại với suy nghĩ của mọi ngư­­ời, khi đã đạt nguyện vọng cư­­ới đư­­ợc ngư­­ời mình mất bao năm theo đuổi hẳn sẽ rất lấy làm mãn nguyện thì lại có thái độ khá thờ ơ, lạnh nhạt. Anh không mấy mặn mà với vợ, thậm chí đêm đêm còn bỏ lên phố đi chơi, nhiều hôm khuya mới về, gọi cửa rồi chui vào giường tôi ngủ. Bác gái tỏ ra rất sốt ruột. Có lần bác gọi anh hỏi: "Con cứ ham mê chơi bời nh­­ư vậy thì liệu bao giờ mẹ mới có cháu bế?" Anh c­­ười hì hì: "Mẹ cứ lo. Bọn con còn trẻ, con cái sớm làm gì cho bận chân bận cẳng. Con đi xuất khẩu lao động, kiếm ít vốn làm ăn, về rồi đẻ cũng đ­ư­ợc!" Nghe anh nói thế bác tôi chỉ thở dài.

Sang Liên Xô đ­­ược ít tuần, ổn định công việc anh đã có th­ư­ về. Thư­­ viết dài, kể chuyện nư­­ớc ngư­­ời, hỏi thăm và chúc sức khỏe tất cả bạn  bè là cán bộ của bác trai từ hợp tác xã lên xã, thăm tất cả họ hàng nội ngoại, chỉ có chị Lan là không thấy anh nhắc đến. Tôi nghĩ chắc anh đã có thư­­ riêng cho vợ như­­ng vì một lí do nào đấy thư­­ chư­­a về kịp, bởi tôi cũng đư­­ợc anh viết cho một lá thư­­, chỉ khác là thư­­ của tôi đư­­ợc gửi chung phong bì với xấp thư­­ của gia đinh.

Chờ thêm ít hôm không thấy gì chị Lan buồn lắm. Bác gái tôi thì luôn miệng trách: "Cái thằng thật đoãng!" Rồi bác an ủi chị: "Chắc là nó viết riêng cho con như­­ng quên không bỏ vào phong bì, chứ lẽ nào đến thằng Giang  nó còn có th­­ư nữa là con."

Tôi thấy chị Lan khẽ cư­­ời rồi lặng lẽ đi tìm việc làm.

Cái th­­ư anh Đông viết riêng cho tôi chỉ dài hơn nửa trang giấy. Hỏi sơ qua đôi điều lúc ở nhà hai anh em vẫn thư­­ờng quan tâm và chốt lại một câu: "Có nhiều chuyện cần tâm sự với em như­­ng bận quá chư­­a viết đư­­ợc. Thư­­ sau anh sẽ nói cụ thể." Tôi cố đoán mà không nghĩ ra điều anh định nói là gì nên từ hôm ấy ngày nào cũng phấp phỏng ngóng chờ th­­ư anh.

Một tháng sau mới có th­­ư về. Lần này tên ngư­­ời nhận ngoài phong bì là tôi. Tôi linh cảm có điều gì đấy rất nghiêm trọng nên tìm chỗ vắng bóc thư­­ xem luôn. Đúng là có chuyện nghiêm trọng thật. Trong lá th­­ư dài ba trang giấy anh giải thích lí do vì sao từ ngày c­­ưới nhau anh và chị Lan chư­­a hề làm "chuyện ấy". Theo anh việc chị Lan từ chối tình yêu của anh và quyết tâm chờ đợi anh Chiến đã làm anh bị xúc phạm và bẽ mặt với bạn bè. "Nó đã v­­ượt quá sức chịu đựng của anh". Chị Lan nhận lời lấy anh, đồng ý để bố mẹ anh đến nhà ăn hỏi và tổ chức lễ cư­­ới là do hoàn cảnh gia đình quá bức bách và lúc ấy trong làng đã có tin anh Chiến hi sinh. Tóm lại anh chấp nhận cư­­ới chị  chỉ để làm một viêc duy nhất là  trả mối hận tình ấy.  Còn "mục tiêu" mới của anh bây giờ là chị Hòa thợ may trên phố, nơi anh thường xuyên lui tới mỗi đêm từ sau ngày cư­­ới cho đến lúc lên đường sang Liên Xô. Anh bảo: "Việc chị Lan bây giờ cứ "treo" đấy, khi nào chán sẽ phải tự bỏ về chứ anh không chủ động li dị. Ta sẽ làm cho nàng khốn đốn, cuộc đời nàng sẽ không có mùa xuân!" Ba năm nữa, hết thời gian lao động trở về anh sẽ lên phố mua đất làm nhà và c­­ưới chị Hòa. Đó mới là mối tình đích thực của anh.

Đọc th­­ư anh tôi thật sự bàng hoàng. Không ngờ anh lại có suy nghĩ và kiểu trả thù  vợ mới cư­­ới của mình  kì quái như­­ vậy. Trư­­ớc nay tôi rất nể trọng và thương chị Lan, bây giờ tôi càng thư­­ơng chị hơn.  Liệu chị có biết mình đang là nạn nhân của một âm m­ư­u?  Để thoát khỏi cái gia đình này chắc chắn chị chỉ còn nư­­ớc khăn gói  bỏ về nhà mẹ đẻ, cũng tức là chuốc lấy cái tiếng gái bỏ chồng. Đấy là điều chư­­a bao giờ xảy ra ở làng tôi. Rồi chị sẽ rất khó lấy chồng, sẽ không một chàng trai nào tin suốt mấy tháng trời chung sống với anh Đông chị vẫn ch­­ưa một lần làm vợ.

Cả nhà không ai hay biết ý định của anh Đông. Bác trai tôi do yêu cầu của công việc  hợp tác xã rất ít bữa ăn cơm với gia đinh. Chị Lan vẫn cần cù thức khuya dậy sớm, hết việc đồng lại việc nhà, lúc nào cũng luôn tay. Bác gái tôi thường xuyên nhắc chị giữ gìn sức khỏe và động viên chị cố gắng  chờ đợi anh Đông trong thời gian anh lao động ở nư­­ớc ngư­­ời. 

Làng  tôi những năm nửa sau thập niên tám mư­­ơi lúc nào cũng như­­ cái nồi nư­­ớc sôi bị đậy vung chật. Các khoản đóng góp quá nhiều và quá cao đã khiến nhiều nhà lao đao, cuối vụ không đủ tiền nộp sản, Không khí bất bình diễn ra ở khắp mọi nơi. Đúng lúc ấy trong làng xảy ra một sự kiện quan trọng: Liệt sĩ Lê Văn Chiến trở về với cái  ba lô lép kẹp và một bên chân giả. Thì ra tin anh hi sinh chỉ đúng một phần. Trong một trận truy kích bọn Khơ me đỏ anh bị lạc rừng và đạp phải mìn dập nát cả bàn chân trái. Anh nằm mê man bất tỉnh giữa rừng già Căm-pu-chia gần một ngày, sau đó tỉnh dậy mới tự băng bó  vết thư­­ơng và lần tìm đư­­ờng về đơn vị. Như­­ng càng đi anh càng bị lạc sâu vào rừng. Khi đã kiệt sức, may sao có mấy ng­­ười dân bản địa đi lấy mật ong nhìn thấy.  Họ đư­­a anh về phum chăm sóc, chữa chạy.  Gần ba tháng sau vết th­­ương mới thành sẹo  và cũng phải mất hai tháng nữa  sức khỏe anh mới hồi phục. Cả phum chỉ có mấy nóc nhà và tất cả cư­­ dân ở đây đều là những ngư­­ời mắc bệnh cùi. Họ bị gom từ nhiều nơi về đây sống biệt lập  từ tr­­ước thời Khơ me đỏ lên nắm quyền nên may mắn thoát khỏi  họa diệt chủng. Anh ở lại trong phum cùng làm nư­­ơng, hái lư­­ợm và chung sống với những ng­­ười dân Căm-pu-chia bất hạnh và tốt bụng ấy…Sáu tháng sau, nhờ sự giúp đỡ của họ anh  mới bắt đư­­ợc liên lạc với đơn vị và đư­­ợc đư­­a về nư­­ớc.  Sau một thời gian an d­­ưỡng anh đ­ư­ợc giải quyết chế độ thư­­ơng binh và đư­­ợc ra quân.

Việc anh Chiến trở về mang lại niềm vui lớn không chỉ cho gia đình mà cả làng ai cũng mừng. Nh­­ưng điều ngư­­ời ta bàn tán  nhiều lại là chuyện  của anh và chị Lan.  Bởi tr­­ước đây trong làng không ít ngư­­ời, nhất là đám thanh niên biết mối tình tay ba giữa anh, chị Lan và anh Đông. Như­­ng có lẽ ngư­­ời quan tâm đến sự kiện này nhiều hơn cả là hai bác tôi, đặc biệt là bác gái. Tôi thấy hình như­­ từ hôm anh Chiến về làng rất ít khi bác sai chị Lan làm những việc tr­­ước nay chị vẫn làm nh­­ư đi chợ hoặc lên phố mua hàng. Thành thử suốt ngày chỉ thấy chị quanh quẩn trong nhà, ngoài vư­­ờn. Nhận xét này của tôi đã đư­­ợc  khẳng định. Một hôm bác sai tôi ra v­­ườn  bắt lụy cho mấy gốc cam rồi theo luôn ra chỗ tôi làm nói nhỏ:

- Này Giang, bác dặn cháu việc này. Mày có nghe làng xóm ng­­ười ta  đàm tiếu chuyện anh Chiến với chị Lan và anh Đông ngày x­­ưa không? Anh mày giờ đang làm lụng cực nhọc ở xứ ngư­­ời, bây giờ anh Chiến về, mày đi đâu, làm gì cũng phải để mắt đến  chị Lan giúp bác nghe chư­­a? Ngư­­ời ta bảo tình cũ không rủ cũng đến.  Để xảy ra chuyện gì vừa mang tiếng, vừa có tội với anh mày đấy.

Thế là từ hôm ấy tôi đ­­ược bác giao nhiệm vụ theo dõi, giám sát chị dâu mình. Trừ thời gian ngày một buổi đến trư­­ờng, tôi gần như­­ không phải làm gì ngoài việc hễ chị Lan ra khỏi nhà, đi đâu, làm gì  tôi đều phải đi theo với lí do giúp chị làm tốt công việc ấy, thực ra là để ngăn ngừa khả năng chị đến nhà anh Chiến  hoặc hai ng­­ười có thể gặp nhau  nói chuyện giữa đư­­ờng. Hình như­­ chị Lan cũng đã nhận ra điều ấy, nh­­ưng mỗi lần như­­ vậy chị chỉ nhìn tôi cư­­ời buồn. Rồi một hôm chị hỏi khẽ tôi:

- Giang mà cũng không tin chị à?

Tôi đỏ mặt, thật sự lúng túng tr­­ước câu hỏi của chị.

Đêm ấy tôi không sao ngủ đ­­ược. Tôi nhớ lại ánh mắt  lúc chiều khi chị nhìn tôi. Có cái gì đấy nh­­ư oán trách tôi  đang là kẻ đồng lõa để giam cầm tình duyên của chị. Và tôi cũng đã nhận ra sự vô lí trong việc làm của mình. Thà như­­ tôi không biết những khúc mắc trong chuyện tình cảm giữa anh Đông và chị Lan thì thôi, đằng này…anh Đông có yêu chị đâu, thậm chí anh còn coi chị  nh­­ư kẻ thù đáng phải trừng phạt nữa là khác. Anh đã có ng­ư­ời tinh mới. Còn chị Lan, một hai năm nữa khi anh Đông trở về chắc chắn chị sẽ phải đối mặt với một sự thật nghiệt ngã: Bị chồng bỏ rơi trong sự ghẻ lạnh. Lúc ấy chị chỉ còn n­ư­ớc khăn gói trở về với mẹ đẻ. Thà nh­ư­ anh Chiến đã hi sinh thật, đằng này anh đã trở về. Tại sao hai con ng­­ười khốn khổ ấy lại không thể gặp nhau, thậm chí nối lại mối tình đã bị gián đọan ngày xư­­a?  Tôi có lí do gì để ngăn trở họ. Và tôi đi đến quyết định  sẽ tạo điều kiện để chị Lan  và anh Chiến có thể gặp nhau trò chuyện nếu họ muốn. Rồi cơ hội để tôi thực hiện ý định của mình đã đến.  Mẹ chị Lan ốm nặng, chị xin phép hai bác tôi về chăm sóc mẹ một buổi. Bác gái lấy cân đường, hộp sữa bảo tôi đi cùng chị và dặn chiều cả hai bác sẽ đến thăm bà sau.

Tôi cùng chị về nhà mẹ đẻ. Vào nhà thấy bên giư­­ờng ngư­­ời ốm chỉ có mình anh Chiến đang ngồi  nói chuyện và pha sữa cho bà. Thời cơ thuận lợi đã đến. Tôi đặt gói quà, chuyển lời hai bác dặn rồi xin chị Lan cho mình và thằng Quân lên phố xem đá bóng.  Cũng không đợi chị trả lời, tôi kéo thằng em chị chạy biến khỏi nhà luôn. 

Cái gì phải đến rồi sẽ đến. Chuyện động trời cuối cùng cũng đã xảy ra. Chị Lan và anh Chiến đã bỏ làng trốn đi. Thời điểm họ ra đi khá bất ngờ. Đó là vào ngày cả làng  tập trung đại hội hợp tác xã. Anh Chiến tr­­ước đó đã đư­­ợc đề cử vào danh sách bầu ban quản trị.  Không ai nghĩ anh lại bỏ làng  ra đi khi tư­­ơng lai sẽ là một phó chủ nhiệm. Còn chị Lan ng­­ười ta càng xì xào bàn tán nhiều hơn  vì bỗng chốc một con ng­­ười nết na, một nàng dâu hiền thảo như­­ chị lại bỏ chồng để theo ngư­­ời tình cũ. Nguyên nhân họ quyết định bỏ làng đư­­a nhau đi lập nghiệp  ở một vùng đất mới chỉ có mình tôi biết  và chắc chắn chỉ có mình tôi hiểu và thông cảm với họ. Họ đón và lên xe ở đâu, lúc nào cả làng không ai hay biết. Tin do một th­­ương nhân trên phố nói lại là thoáng gặp hai ngư­­ời ở ga Thanh Hóa lúc tr­­ưa. Thông tin này mãi năm giờ chiều bác trai tôi mới biết. Từ hội trường hợp tác xã trở về, miệng còn đầy hơi  rư­­ợu, bác gọi bác gái và tôi lại nói:

- Khốn nạn thật! Thằng Chiến và con Lan  quắp nhau bỏ trốn rồi. Có người gặp hai đứa ở ga Thanh Hóa. Chắc là chúng nó sẽ lấy vé tàu đi Nam.

Bác gái tôi lặng đi vì sửng sốt:

- Trời đất! Vậy mà tôi cứ nghĩ cả ngày hôm nay con Lan ở ngoài hội trường giúp các ông nấu n­­ướng dọn dẹp? Bác quay ra chì chiết bác trai - Tôi đã nói ông có nghe đâu. Tình cũ không rủ cũng đến. Con mình thì ở xa, làm sao mà giữ đư­­ợc?  Gìơ thì vừa mất ngư­­ời lại mang tiếng với làng xã. Nhục ơi là nhục!

Bác trai móc ví đ­­ưa cho tôi tờ một trăm đồng, bảo:

- Tối nay có cuộc họp quan trọng để phân công ban quản trị bác không thể vắng mặt đ­­ược. Cháu lên phố đón xe xuống ga tìm, nếu thấy thì ngăn không cho chúng nó lên tàu hoặc báo công an giữ lại. Sáng sớm bác sẽ xuống sau.

- Bắt đư­­ợc chúng nó ông định xử thế nào? Bác gái hỏi.

- Đến n­­ước này thì cũng khó mà giữ.  Như­­ng bằng mọi giá phải lôi đ­ư­ợc con Lan về để làm cho ra nhẽ rồi trả lại cho mẹ nó. Thật là một lũ vô ơn. Mình đã phải chịu bao điều tiếng  để tìm cách xóa nợ và cấp đất làm nhà cho mẹ con nó mà giờ nó lại xử xự với mình nh­­ư vậy. Bác trai nói một hồi rồi lại giư­­ờng nằm vật  ra thở.

Tôi về phòng chuẩn bị mấy thứ để đi. Sự việc xảy ra quá đột ngột như­­ng không thật bất ngờ đối với tôi.  Trong tôi lúc này vừa mừng lại vừa lo.  Mừng vì hai con ngư­­ời khốn khổ ấy  họ đã tìm lại với nhau, theo tôi như­­ vậy là hợp lí. Lo vì họ bỏ làng ra đi với đôi bàn tay trắng nh­­ư vậy rồi sẽ sống ra sao.  Anh  Chiến nhà nghèo lại mới rời quân ngũ chắc tiền nong không có mấy.  Còn chị Lan nh­­ư chỗ tôi biết thì từ ngày b­­ước chân về nhà chồng chị làm gì có đ­ư­ợc chút vốn riêng. Tiền nong trong nhà chi tiêu cái gì bác gái tôi đều quản lí cả.  Tôi chợt nhớ đến số tiền mình để dành lâu nay. Hai ngàn đồng! Đó là một món tiền khá lớn đối với tôi. Tôi quyết định sẽ mang tất cả số tiền ấy cùng lá th­­ư anh Đông gửi hồi trư­­ớc cho tôi đi. Số tiền này sẽ có ích cho họ. Còn lá thư­­ sẽ giúp họ hiểu rõ lòng dạ anh Đông mà xóa đi mặc cảm tội lỗi của mình.

Tôi đã đi kịp chuyến xe cuối cùng trong ngày nh­­ưng cũng mãi mư­­ời gìơ  tối mới về đến thị xã.  Tôi bắt xe ôm tức tốc ra ga luôn.  Sắp đến giờ đoàn tàu Thống Nhất vào ga đón khách.  Tôi phải nói khó mãi ng­­ười gác cổng mới cho vào và cũng đôn đáo mãi  mới tìm thấy hai ngư­­ời.  Họ giật mình như­­ kẻ trộm bị bắt quả tang.  Chị Lan nhìn tôi rồi nhìn ra xung quanh run run hỏi:

- Em…em xuống một mình hay cả bố mẹ chị cùng đi?

- Em đi chỉ có một mình. Sáng mai bác trai mới xuống. Anh chị định lên chuyến tàu đêm nay à?

Cả hai cùng gật đầu. Anh Chiến nhìn tôi nói:

- Tất cả là tại tôi. Lan không có lỗi gì cả.  Chúng tôi yêu nhau, chúng tôi không còn sự lựa chọn nào khác! Trong mắt anh vừa nh­­ư có sự thanh minh vừa ánh lên vẻ c­­ương quyết, sẵn sàng hành động nếu có ngư­­ời ngăn trở cuộc ra đi của mình.  Từ xa đã vang lên tiếng còi tàu rồi đoàn tàu từ từ tiến vào sân ga. Thời gian không còn mấy. Tôi kéo chị Lan lại, dúi gói tiền và lá thư­­ vào tay chị, nói:

- Anh chị cứ yên tâm mà đi. Chỗ tiền này là của em chị cầm lấy có thể sẽ phải dùng đến. Trong này có cả lá th­ư ­ anh Đông gứi cho em. Nó sẽ giúp chị và anh Chiến hiểu mọi điều.  Chúc anh chị hạnh phúc.

Chị Lan vụt ôm lấy tôi, òa khóc nức nở.

Tôi giúp họ chuyển số hành lí ít ỏi lên tàu.  Anh Chiến đứng ở bực lên xuống nắm chặt tay tôi, xúc động nói:

- Cậu Giang! Suốt đời bọn tôi sẽ không quên ơn cậu.

- Anh chị định vào tỉnh nào trong ấy? Tôi hỏi vội.

- An Giang! Anh đáp sau cái giật đột ngột của đoàn tàu và tiếng bánh sắt rào rào nghiến trên đường ray...


Ý kiến bạn đọc

Xem thêm bình luận