Đường dây nóng: 0237 3721150
Podcast 17/12/2025 09:30

Đọc truyện: “Bên dòng sông Mực” | Phạm Thắng

Mời quý vị và các bạn nghe truyện ngắn “Bên dòng sông Mực” của tác giả Phạm Văn Thắng qua sự thể hiện của giọng đọc Lê Dung.

1

Đêm bàng bạc, hoang vắng. Chỉ có ánh trăng se sắt, hoang hoải đi về phía cuối trời. Khôi mơ màng thấy bóng người con gái khỏa mái chèo, chòng chành đi ra từ lau lách, rong rêu. Mắt nàng đen láy, phảng phất một nét buồn mơ hồ. Nàng khẽ cười rồi khua mái chèo chìm vào hơi sương bồng bềnh, mờ ảo. Chàng tỉnh giấc. Dòng sông Mực ngằn ngặt một màu đen huyền khiết. Khôi đi về bến nước, nơi có những tảng đá được kê lại hồi chiều.

Năm Chính Hòa thứ hai - Triều đại Lê Trung Hưng, Tân Dậu, 1681. Đó là những ngày đầu Phạm Khôi cùng các chị gái về khai khẩn ở một vùng sơn cước thuộc tổng La Miệt, huyện Nông Cống, xứ Thanh Hoa(2), theo dấu chân từ năm xưa của Phạm Đốc(3) tiên sinh.

Triều lên. Nhìn từ Bến Đá, dòng sông Mực thăm thẳm trôi vào đêm. Hơi sương vẫn còn đó bồng bềnh, chờn vờn lên mặt nước. Chỉ có bóng dáng của nàng là không còn nữa. Mặt nước khẽ lay động những lớp sóng lấp loáng còn sót lại từ nhịp khua mái chèo. Chàng định lao theo dòng nước, xuyên qua những lau lách, rong rêu. Chàng sẽ đến được con thuyền chòng chành trong hơi sương. Nhưng không kịp nữa. Chàng tiếc nuối nhìn dòng sông, găm ánh mắt mòn mỏi vào cái đáy kiệt cùng của đêm.

2

Một buổi chiều hoang sơ, quạnh quẽ như hàng ngàn năm qua nó vẫn quạnh quẽ, hoang sơ một màu nguyên thủy. Ánh nắng cuối ngày muộn mằn trôi trên dòng sông tạo thành những lớp vảy lấp loáng. Khôi cùng các chị gái mệt mỏi bước xuống đò. Bầu trời dập dềnh những đám mây mỏng mảnh trôi dạt về phía trời xa. Khôi chọn chỗ đứng ở đầu con đò. Lúc nào cũng vậy, chàng luôn tìm chỗ dễ dàng bao quát mọi cảnh vật. Vóc người rắn chắc, vai rộng, khuôn ngực vạm vỡ ưỡn về phía trước, Khôi đứng đó thả hồn lên dòng trôi. Đôi mắt chàng lấp lánh như chứa đựng cả một dòng sông, cuồn cuộn bao hoài bão lớn. Chị Nhật và chị Nguyệt mệt mỏi ngồi bệt ở ngay thanh ván đầu tiên được kê giữa hai thành con đò. Khôi đưa mắt nhìn lên con đường mòn phía trước rồi sốt ruột nhìn ông đò. Ông đò mòn mỏi cắm cây xào ghim con đò nằm lại, mắt nhìn về con đường tít tắp để chờ đợi thêm những người khách cho đủ chuyến đò.

Khôi thấy trong mắt ông ánh lên một niềm vui. Một đoàn bộ hành nữa vội vã bước xuống đò. Một người đàn ông chạc năm mươi tuổi, vài người trung niên, một cô con gái chừng sang tuổi mười bảy. Cô gái có đôi mắt sâu vời vợi. Nàng mơ màng nhìn xa xăm, thoáng một nét buồn ưu tư. Bên cạnh nàng là một con chó với bộ lông vàng óng được đeo ở cổ một cái chuông đồng kêu loong boong.

Tiếng cót két được phát ra từ những mảnh ván trên thân đò. Một cảm giác nhẹ bẫng khi con đò rời bến. Mây trời chòng chành trôi theo nhịp khua máy chèo. Khôi nhìn dòng sông nhưng lòng dạ hắt hiu ở một nơi tít tắp. Tâm trạng của người đi khai hoang: chộn rộn, chênh vênh. Nhìn đôi bờ tre xanh, Khôi nhớ nhà. Nhớ những năm tháng tuổi trẻ cơ hàn mà thấm đẫm tình người trên mảnh đất Thổ Sơn(4) yêu dấụ.

Con đò nghiêng về một bên. Khôi ngồi xuống lấy thăng bằng. Một làn tóc bồng bềnh thả vào nắng chiều hương hoa bưởi dịu nhẹ. Bấy giờ khôi mới biết người ngồi ngay cạnh mình là một thiếu nữ. Cơ thể nàng chợt nhoài ra khỏi thành đò. Cánh tay chới với trên mặt nước như để cố níu giữ một vật báu bị đánh rơi. Mắt nàng thảng thốt rồi tuyệt vọng nhìn về phía sau con đò. Nàng bị đánh rơi vật gì chăng? Khôi buông mình lao vào dòng nước. Thoắt cái, Khôi đã cầm chặt một mảnh vải trong tay. Là một chiếc khăn vuông màu hạt dẻ. Khôi cười thích thú trong khi mọi người còn chưa hiểu việc gì xảy ra.

Nàng đỏ mặt, túng túng nhận lại chiếc khăn từ tay Khôi. Đôi mắt u hoài chợt ánh lên những tia sáng tươi tắn như nắng vàng giữa ngày đông. Nàng khẽ cười. Bầu trời trong veo. Dòng sông rạo rực những lớp sóng tan vào nắng chiều. Chiếc khăn màu hạt dẻ được nàng trùm lên đầu. Vài sợi tóc được nhuộm ướt khẽ khàng bay lên mặt chàng. Hương hoa bưởi êm êm xõa vào gió mênh mang. Khôi lấy tay gỡ những sợi tóc ra. Chàng làm một cách vụng về và chậm chạm như muốn níu giữ những sợi tóc trên bờ môi mình thật lâu. Con chó có chiếc chuông đồng treo ở cổ bỗng chồm lên. Tiếng kêu boong boong làm Khôi hơi giật mình. Nàng cau mày ném cái nhìn nhắc nhở về thú cưng. À, nàng còn thêm cả một vệ sĩ trông nom nữa. Con chó thật tuyệt và đáng yêu làm sao!

Đò cập bến. Hai ánh mắt tìm nhau từ biệt. Hụt hẫng và trống vắng. Dòng chiều thăm thẳm trôi vào lòng sông.

3

Khôi vẫn đứng chôn chân trên tảng đá, mắt vẫn găm xuống dòng sông Mực nhạt nhòa một màn đêm như cái gianh giới của mong chờ và tuyệt vọng. Là nàng thật sao? Đúng là ánh mắt ấy, ánh mắt vời vợi phảng phất một chút buồn mơ hồ. Ánh mắt chìm trong hơi sương. Ánh mắt trôi vào lau lách, rong rêu. Chàng tự trách: Sao lúc đó mình không gọi nàng? Chàng cay đắng: Tên nàng là gì nhỉ? Chàng đau khổ nhận ra: Đến cái tên mình cũng chưa kịp biết.

Khôi đi lên chòi canh. Bên kia vạt ngô mới trồng xuất hiện mấy nếp nhà của đoàn người họ Lê Ngọc mới đến dựng. Xóm làng sẽ ngày một đông đúc. Gió nhè nhẹ thổi về hướng núi Mâm xôi thủ lợn mang theo mùi nồng ẩm của sông nước lẫn với cái khen khét của than củi từ nương dãy. Hướng gió báo cho Khôi biết đêm đã sang canh tư. Khôi bằng lòng vì đã chọn được mảnh đất đắc địa sau một chuyến dài hành trình tìm kiếm. Từng vạt ngô xanh tươi đang vào độ trổ bông. Những ruộng lúa bước vào thì con gái. Khôi nghĩ đến những ngày đầu hăng hái lên tận thượng nguồn sông Mực, rồi lặn lội xuống vùng chiêm trũng tìm mua hạt giống.

Bắt đầu từ một buổi chiều muộn. Ánh nắng nhạt nhòa đứt gãy từng vệt trên ngọn cây. Khôi đu mình, vọt lên một cành cây để làm động tác kéo tay. Tiện đà, chàng leo lên ngọn cây cao. Chà, Tuyệt quá, là một mảnh đất rộng rãi và bằng phẳng! Và kia nữa, hồ nước! Một cái gì đó xốn xang khó tả. Vội vàng tụt xuống, vục mặt xuống dòng nước mát lạnh, chàng mơ hồ mường tượng về một xóm làng trù phú. Chợt chàng thảng thốt reo lên:

- Chiếc khăn! Là chiếc khăn vuông màu hạt dẻ!

Khôi nhặt chiếc khăn lên, úp lên ngực. Nàng đang ở gần ta chăng? Nắng chiều chạy dài trong thung, mênh mang trên lòng hồ. Chàng như được tiếp thêm sức mạnh, thấy mình sung sức, tráng kiện. Nàng đang ở đâu đây!

Đoàn bộ hành bước vào con thung rộng rãi. Mỗi người một việc: người dựng lều, người nhóm lửa, Khôi đi cài bẫy. Bóng đêm ở miền sơn cước đến thật nhanh. Ánh lửa bập bùng sáng cả một thung sâu. Đêm thứ nhất yên tĩnh. Đến đêm thứ ba thì khác. Chị Nguyệt linh càm thấy điềm chẳng lành. Chị Nhật đốc thúc mọi người chất thật nhiều củi cạnh các con lều. Khôi dặn các chị nằm im trong lều để một mình điềm tĩnh đi nhóm lửa.

Một tiếng gầm hú xé toạc màn đêm.

Trong đầu Khôi như có những tảng băng lạnh toát, vỡ vụn. Mùi khen khét, rồi hơi thở nồng nặc xuất hiện. Hai con mắt long sòng sọc bên kia ánh lửa lao tới. Như một phản xạ tự nhiên, Khôi đứng phắt dậy, định vùng chạy vào lều. Nhưng không! Trong một giây định thần, hai chân Khôi dạng ra chắc nịch, tay cầm khúc gỗ đang cháy, mắt nhìn trừng trừng vào con hổ. Trống ngực đập thình thịch. Con hổ dừng lại, nhe hàm răng trắng muốt. được rồi, phút hoảng loạn đã qua, Khôi cố gắng bình tĩnh. Không được chạy. Các cụ đã dạy thế khi gặp hổ dữ. Đột nhiên một luồng gió mạnh từ phía lưng núi thổi tới. Ngọn lửa bùng lên dữ dội. Người và hổ nhạt nhòa trong bóng lửa. Ù ù cuồng phong. Con hổ gầm lên một tiếng tuyệt vọng rồi từ từ quay đầu về phía lòng hồ.

Chiếc khăn vuông màu hạt dẻ? Hay nàng đã đi theo con hổ về với hang sâu? Rừng vẫn thăm thẳm một màu đen nhức nhối. Tim chàng như thắt lại.

Trời sáng, chị Nhật nhất quyết sửa soạn hành lí. Khôi đồng ý cùng đoàn lên đường di chuyển về phía hạ nguồn.

Không xuống thêm được nữa. Dưới kia là vùng sình lầy trũng nước. Phía trên thượng nguồn sông Mực là những quả núi cao đan xen các con thung như sơ đồ bát quái chắn giữ. Phía nam và bắc là hai dãy núi như hai đầu gánh che chở xóm làng. Ở giữa, nơi chính Khôi đang ngồi trên chòi canh đêm nay là một bãi bồi cao ráo, khoáng đạt. Hôm đó, Khôi bàn với các chị, quyết định dừng chân. Một vùng đất bằng phẳng được tưới tắm, bồi đắp bởi dòng sông Mực hiền hòa. Qua những ghềnh thác, dòng sông khéo léo uốn lượn như cố tình ghìm dòng chảy xiết, để rồi mềm mại trôi thẳng về phía đông sình lầy. Chỉ những người lúc trèo đèo lội suối, lúc kết bè mảng trôi trên sông lâu ngày mới biết cảm giác phấn chấn như thế nào khi gặp một vùng đất sơn thủy hữu tình như vậy.

- Gạo đã hết, thóc giống không còn. Củ mài, măng rau cũng có mùa. Ngày mai em phải xuôi dòng, tìm mua giống lúa, ngô về gieo trồng. Các chị sẽ làm đất đợi em về.

Chị Nhật tay dừng cuốc, lấy vạt áo lau những giọt mồ hôi lấm tấm nơi những vết nhăn trên trán, tin tưởng nói với Khôi.

Chỉ đợi thủy triều xuống, Khôi lên bè nứa trôi về xuôi. Rong ruổi qua các xóm làng lúp xúp ven sông. Đây Làng Vũ, đây làng Lê…

Khôi khấp khởi đeo túi hạt giống trên vai, vừa kịp quay về nơi neo bè nứa thì trời nổi cơn thịnh nộ. Tối sầm mặt mũi. Mưa! Mưa to chưa từng có. Khôi leo lên một túp lều được dân bản địa làm treo leo trên một cành cây lớn ven sông. Mưa không ngớt. Đúng là hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi… Một đêm trôi qua. Nước từ thượng nguồn đổ xuống ào ào. Trắng xóa cả một vùng. Nước dâng lên sát Khôi nằm. Rắn! Những con rắn to nhỏ đủ loại màu sắc: con màu chì, con xanh lục, con vằn đen trắng… leo lên cây, đi tìm nơi ẩn nấp. Ngày ở Thổ Sơn, Khôi là tay bắt rắn cừ khôi. Chỉ cần vài động tác ve tay là con rắn hổ trâu, thậm chí là cả cạp nia to đến cả hơn một cân đã bị quay tít phía trên đầu hoặc ngoan ngoãn nằm trong giỏ tre. Thế mà giờ đây, ngực Khôi như có ai đó thò bàn tay gân guốc vào bóp chặt lại. Những con rắn lừ đừ thè những cái lưỡi chớp chớp, bò sát ngay cạnh mình. Rồi chuột, rết nữa. Chúng đang chạy trốn một cơn đại hồng thủy. Không biết tại nước mưa hay mồ hôi mà toàn thân ướt đẫm. Khôi lịm đi trong tiếng mưa ào ạt.

Trong cơn mê sảng, Khôi bắt gặp người con gái đang ngồi bên bếp lửa. Ánh mắt nàng vời vợi, chiếc khăn vuông màu hạt dẻ không trùm hết mái tóc dài như suối. Khuôn mặt nàng hồng tươi trong ánh lửa bập bùng…

Khôi tỉnh giấc. Trời đã tạnh. Không biết mình đã ở đây bao nhiêu ngày đêm. Mùi ngô nướng ở đâu làm ruột gan cồn cào. Nước miếng trào ra ngân ngấn bờ môi thâm khô vì sốt rét. Khôi ngồi dậy và ngạc nhiên nhận ra bên cạnh mình là những bắp ngô vàng óng được kê trên một bếp lửa hừng than làm từ một mảnh chum vỡ. Mình vẫn đang mơ chăng? Khôi dụi dụi hai con mắt để xác nhận mình mình đang còn tỉnh. Mình tỉnh táo thật mà! Túp lều. Nước đã rút. Túi hạt giống còn đây! Chắc một thảo dân thăm vườn thương tình cứu giúp. Bếp lửa ấm nóng. Những bắp ngô nướng căng sữa thơm nồng… Đợi thêm một ngày nữa, nước lũ hết, dòng triều đã lên, Khôi lấy than củi viết dòng cảm ơn lên cột lều rồi nóng lòng ngược bè trôi về Bến Đá.

Những ngày tháng đó đã qua. Những nếp nhà lá đã hết mùi ngai ngái của gỗ tươi, phên nứa. Một vùng trời ngan ngát hương lúa làm đòng, ngầy ngậy mùi ngô nếp trổ bông.

4

Dòng sông Mực bồng bềnh hơi sương. Sương giăng kín mặt sông, nhìn xôm xốp như một cánh đồng bông được mùa. Màu tím nhạt trên nền trời phía đông đã chuyển dần sang hồng phai làm cho cánh đồng bông chỗ trắng bong, nơi rực hồng, lung linh, huyền ảo. Khôi đi xuống Bến Đá, vục xuống dòng nước, tận hưởng cái mát lạnh, tinh khiết của của ban mai. Chợt Khôi nghe đâu đây tiếng loong boong. Tiếng động lúc một rõ hơn. Đúng rồi, như là tiếng chuông đồng treo trước ngực con chó có bộ lông vàng óng trên chuyến đò hôm trước. Cả tiếng khua mái chèo nữa. Kìa! Nàng! Nàng thật rồi! Nàng trôi ra từ chốn bồng lai chăng? Mắt nàng đen láy. Nàng khẽ cười làm khuôn mặt rạng tươi trong màu trời, màu sương. Dòng sông hàng trăm năm như bị bỏ quên trong lau lách hoang dại bỗng bừng lên trong sớm tinh mơ. Trái tim chàng như tan chảy! Từng tảng băng đang vỡ vụn, tuôn rơi ào ạt từ sâu thẳm. Nàng sẽ lại trôi biến vào xứ sở của mây trời, của lau lách hoang vu sao? "Không, ta sẽ lao tới, sẽ giữ chặt lấy nàng. Đây rồi, chiếc khăn màu hạt dẻ!" Chàng vẫy vẫy chiếc khăn lên ra hiệu. Nàng thảng thốt, mắt long lanh:

- Là chiếc khăn của Ngọc Bỉnh!

Họ ngồi trên trên tảng đá lớn của bến nước. Nắng lên. Cánh đồng bông chợt tan biến từ khi nào không biết. Họ chuyện trò như đã thân nhau từ ngàn năm. Nàng tên Bỉnh, họ Lê Ngọc. Hôm cùng cha chạy trốn khỏi vút nanh hổ giữ, nàng đã để tuột mất chiếc khăn bên bờ suối gần con hồ lớn. Sau khi rời bỏ mảnh đất từ thượng nguồn, nàng theo đoàn bộ hành di chuyển về đây tạo dựng cơ nghiệp. Nhà nàng ở phía trên, chính là những mái lá xa xa bên kia vạt ngô mà Khôi nom thấy khi ngồi trên chòi canh.

Nàng khéo léo đưa tay vấn chiếc khăn vuông lên đầu. Chiếc khăn màu hạt dẻ như làm tôn lên làn da có phần hơi rám nắng. Nàng đẹp quá! Vẻ đẹp mộc mạc, mặn mòi đặc trưng cho nét thanh tú pha lẫn chút nắng gió của cô gái xứ Thanh. Chiếc khăn là do mẹ nàng trao tặng cho nàng trước khi bà mất. Mắt nàng rười rượi nhìn ra lòng sông thăm thẳm như chứa cả nỗi u hoài của một buổi sáng tinh sương. Rồi, không để không gian thêm trầm lắng, nàng quay sang nhìn Khôi, khẽ cười. Gió ngoài sông nhẹ thổi. Lũy tre lại ngân lên một bản giao hưởng mùa thu dịu nhẹ. Lòng chàng xốn xang, ngây ngất pha một chút ngỡ ngàng dường như không phải. Dường như đang trong mơ.

Mùa thu hoạch đầu tiên.

Họ cưới nhau.

Lễ cưới thật đơn sơ, bình dị như chỉ dành cho buổi ban đầu của những người đi tạo dựng vùng đất mới.

Bến Đá, là nơi giao hòa trời đất, nước non. Từng phiến đá phẳng lì được kê thành các bậc xuống tận mức nước thấp nhất khi triều xuống. Đứng từ bậc đá trên cùng có thể bao quát cả một cùng nhà cửa, ruộng vườn, sông nước. Sáng nay, gió vẫn dạt dào thổi vào vùng đất mới mang theo hương vị ngọt ngào của sông nước hòa vào hương vị ngây ngất của lúa ngô, đồng ruộng, thoáng như câu chuyện tâm tình sâu thẳm của những người khai khẩn. Khôi và Bỉnh làm lễ đính ước trước sự vui mừng của hai họ. Họ quỳ xuống khấn vái thiên địa, tổ tiên:

- Tuế tại…

Chàng chợt dừng lại. Chưa có tên làng xã! Phía trên là thượng nguồn sông thiêng, núi dữ. Dưới kia là sình lầy, úng lụt. "Đúng rồi"- chàng reo lên: "Bái Hạ! Bái Hạ xã!" Khôi nhìn sang hai gia đình, nhìn người bạn đời, rồi hướng thẳng mắt lên mảnh đất lúa ngô trù phú, nhìn lên bầu trời thăm thẳm:

- Tuế tại Bái Hạ xã,… Nam tử Phạm Khôi nhằm Mùa thu Tân Dậu, năm Chính Hòa thứ hai chính phối Lê Ngọc Bỉnh. Cẩn cáo Thiên Địa, Cung nghinh Phạm Gia tiên tổ độ trì phu thê trăm năm hạnh phúc, Nhân cường vật thịnh, xã tắc bình an…

Lời cẩn cáo đính hôn trước thiên địa, thần linh hay chính là lời khai danh cho một vùng đất mới. Bái Hạ! Tiếng Khôi hòa vào tiếng gió hay chính là tiếng gió, tiếng sóng vỗ mơn man trên dòng sông Mực, tiếng nắng giòn tươi trên những vạt đồi, bờ bãi, ngô khoai …

5

Bái Hạ, mùa nối mùa rộn ràng. Những đứa trẻ lần lượt ra đời. Những mái nhà mới được mọc lên. Những bông lúa trĩu vàng, những bắp ngô căng tròn, e ấp trong lớp bẹ tinh khôi. Lòng người, trời đất giao hòa.

Một chiều tháng sáu oi bức, sau khi đã cùng hai đứa con trai lớn Kim và Giao đi đốt dãy, tu sửa lại con đường dẫn vào làng, rồi tập cho các con cài bẫy thú, Khôi cùng các con ùa ra ra bến Đá, hòa mình vào dòng nước mát lạnh. Nhìn hai đứa lớn tung quả bưởi ra giữa dòng để thi nhau thả những sải bơi dài, thoăn thoắt, chàng mừng thầm: "Chúng nó đã lớn thật rồi!" Chàng lấy hơi, quẫy mạnh đôi chân để lặn xuống tận đáy sông rồi thả lỏng cơ thể cho dòng sông mơn man khắp da thịt, từ từ nâng mình lên mặt nước. Những lúc như thế Khôi cảm thấy đầu óc thư thái, tĩnh tâm vô cùng. Nguồn năng lượng sống và ý chí quyết tâm có khi lại được hình thành từ những giây phút trải qua cảm xúc vô định. Nhìn mặt nước mênh mang, Khôi nghĩ: Đời người cũng như dòng sông. Năm tháng miệt mài bồi đắp bờ bãi rồi cũng đều phải hòa ra biển lớn.

Trăng trung tuần nhô lên vành vạnh. Khôi gọi Kim và Giao lên ngồi trên tảng đá lớn, thì thầm:

- Trên dòng sông này, tại nơi bến Đá này, cha mẹ đã gặp lại nhau, đã trở thành vợ chồng, và sinh ra các con. Ngày ngày tạo dựng cơ ngơi - Cha con nhìn ra dòng sông mực lấp lánh ánh vàng - Đây là vùng đất Phạm Đốc tiên sinh ước nguyện con cháu đời sau sẽ khai hoang lập nghiệp khi dừng trại trong một cuộc hành quân chinh phạt nhà Mạc.

Ở đằng sau, người mẹ lặng lẽ đi về phía ba cha con. Khôi ôm lấy lấy hai con, tiếp tục câu chuyện:

- Khai đất, lập làng, kế tục dòng dõi, tạo dựng cơ ngơi coi như thầy đã hoàn thành. Tuy đất nước đương yên bình, nhưng chí lớn nam nhân, giúp vua bình trị vẫn đang đợi thầy ở phía trước.

Ngọc Bỉnh đã biết lòng quyết chí ra đi của chồng từ lâu nhưng khi nghe được những lời căn dặn với hai con, nàng vẫn thảng thốt:

- Đừng mà, thầy thằng Kim!

- Không, tôi đi, mai mốt sẽ về. Thằng Kim và thằng Giao đã lớn. Chúng sẽ cùng mẹ sớm hôm ruộng vườn, chăm sóc các em.

Hai đứa ôm lấy vai cha sụt sùi.

- Các con có biết vì sao thầy mẹ đặt tên cho hai đứa là Kim và Giao không?- Khôi xoa đầu hai đứa - Kim giao là một loài cây ngay thẳng, không ngại gió mưa, bão tố. Kim giao còn ẩn chứa sự gần gũi, gắn bó bên nhau. Mai mốt thầy lên đường. Thầy muốn hai con sẽ thành trụ cột gia đình, thay thầy kế truyền cơ nghiệp, dòng dõi…

Gió đêm nay vẫn dạt sóng vào đôi bờ, vẫn ôm cả cánh đồng, bờ bãi ngô khoai, thầm thì những câu chuyện tâm tình sâu thẳm từ ngàn xưa.

Những ngày sau họ ít nói cười hơn. Người cha sửa lại mái nhà, mở thêm những con đường mới, tập cho các con trồng tẻ, cài bẫy, cắm chông…

Một sáng tinh sương, chí khí trung quân như đất trời lồng lộng, Phạm Khôi xuống thuyền, tìm đường gia nhập đoàn quân tiến về phương nam.

Lúc đó là mùa xuân, năm Chính Hòa thứ mười sáu, Bính Tý - 1696.

Bóng mây trời hòa vào bóng sông. Bóng chàng hòa vào bóng mây trời. Người thiếu phụ cùng các con đứng trên bến Đá, phía sau là các chị Nhật, Nguyệt cùng anh em làng xóm, họ lặng nhìn con thuyền chòng chành mờ dần trong màn sương. Sương rơi hay nước mắt nhạt nhòa. Nước mắt hay mạch nguồn cho lòng trung quân, hiếu nghĩa. Họ đâu biết có một ngày, Táo tiết tướng quân(4) sẽ mãi mãi nằm lại ở miền đất lạ. Họ đâu biết có một ngày, Kim sẽ về miền đất tổ Thổ Sơn, còn Giao ở lại Bái Hạ kế thừa nghiệp cha. Nhưng họ biết, họ biết tất cả công việc mình đang làm hôm nay sẽ là điểm khởi đầu cho một làng quê tươi đẹp ngàn năm sau.

Bái Hạ, mùa nối mùa rộn ràng, ngày nối ngày sinh sôi. Dòng sông Mực vẫn lấp lánh một màu xanh nguyên sơ./.


Ý kiến bạn đọc

Xem thêm bình luận