ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH THANH HÓA

Thanh Hoa Radio and Television
Đường dây nóng: 0237 3721150
Podcast 05/06/2023 15:07

Truyện ngắn "Lời thề khắc lên bờ công sự" | Từ Nguyên Tĩnh | TTV Podcast

Mời quý vị và các bạn nghe truyện ngắn "Lời thề khắc lên bờ công sự" của Nhà văn Từ Nguyên Tĩnh qua giọng đọc của Huyền Linh.

Tôi cứ nấn ná mãi, chưa viết được chuyện sinh hoạt đời thường, những năm tháng chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng. Tất nhiên so với các chiến sĩ Quân giải phóng  Miền Nam thì chuyện gian khổ của tôi không thấm vào đâu. Quân giải phóng tiêu chuẩn ăn giảm xuống mức chỉ một hai lạng, một ngày, có khi đứt bữa. Có nghĩa là nhịn đói. Nhịn đói mà vẫn chiến đấu.

Ở miền Bắc, Hàm Rồng – Thanh Hóa, những năm 1965 đến năm 1973 (úc ký hiệp định Pa rie ngừng ném bom trên miền Bắc ) cũng kham khổ lắm. Cơm độn mì. Mì nắm hấp hoặc luộc. Khi bẻ bánh ra ăn đắng ngoét. Nhiều khi trong bánh những con mọt chết giơ càng ra như dọa. Vì thế trông chờ đến ngày tết hoặc lễ, sẽ được "ăn tươi". Không biết ai sáng chế ra hai cái từ đó nữa. Nhưng đến ngày đó vui lắm. Khẩu phần ăn sẽ tăng gấp đôi. Ví dụ một ngày năm hào, thì hôm đó sẽ được một đồng. Nhưng số tiền ấy không thấm vào đâu nếu không có một con lợn chăn nuôi của đơn vị, vỗ béo ở trong chuồng, chờ ngày mổ. Đánh giặc cũng phải tăng gia và chăn nuôi. Chả thế, anh nào được cử xuống anh nuôi đi lấy bèo cho lợn là thích lắm. Vì được xuống làng để " bồi dưỡng mắt". Cũng có khi đánh xe bò sang tận ao làng Yên Vực để lấy bèo. Dù bom đạn nhưng bèo tây ở đó vẫn xanh tốt. Khi kéo xe trên đường về lại gặp công nhân sửa cầu, thanh niên xung phong đi lấp hố bom. Thoắt cái, họ đã trở thành nghệ sĩ - đối đấp nhau bằng câu hò:

Hởi chàng trai đẩy xe bò

Muốn ăn cơm nếp thì hò với em

Chú lính dừng lại tay chống nạnh như con gà trống, phách lối:

Em ơi! Trước lạ sau quen

Đến giúp anh đẩy xe lên đỉnh đồi

Nào xe có chi ngoài mâý bì bèo đóng vào bì gai, khi đẩy qua đường sắt, vì buộc không chặt nên vãi tung ra. Được một mẻ cười cho mấy cô TNXP- Ôi anh bộ đội nói dối, lúc nảy bảo là thuốc súng, phải cẩn thận không nổ đấy.

Cái vui hồn nhiên ấy không phải lúc nào cũng xuất hiện. Phần nhiều bị bom đạn xóa đi không để cho nẩy mầm. Những ngày " ăn tươi " của chúng tôi cũng thế. Một năm có mấy ngày. Ngoài tết ra, có ngày Quốc tế lao động (1/5), ngày tết Đọc lập (2/9) và ngày thánh lập QĐND (22/12).

Ngày 2 thánh 9 năm 1967. Là một ngày buồn…

5 giờ kẻng của anh lính trực ca gác cuối dóng dã. Tiếng còi của trực ban thổi liên hồi. Cũng lạ. Lúc máy bay vào không chờ cho tiếng gõ kẻng báo động ai cũng vùng dạy ra pháo. Mà khi nghe tiếng còi, và tiếng kẻng báo thức, khó căt bỏ cơn thèm ngủ. Dù vậy trực ban phải ra giọng rất to:

- Tất cả dậy! Chúng tôi phải dạy tập thể dục. Tiếng hô điểm danh: 1…2…3…4…náo loạn cả trận đia. Mỗi khẩu đội chỉ được cử một người xuống sông Mã xách lên một xô nước cho khẩu đội đánh răng và rửa mặt. Chiến đấu lâu dài nên mỗi tiểu đội có thêm chiếc thùng phi để đựng nước. Sau đó là 15' phút làm công tác chuẩn bị trước. Cán bộ nhắc nhở: - làm công tác chuẩn bị trước tốt là đánh thắng địch 50%. Rồi ăn sáng. Ăn sáng trước đây mỗi người một bát cơm, có nước rưới là nước mắm pha loãng, có tráng một thoáng mỡ cho trơn miệng. Nhưng được ăn cơm dù với muối cũng ngon. Sau này, chuyển ăn sáng thành bữa chính, sợ đánh nhau sẽ nhịn đói cả ngày.

Hôm nay chúng tôi sẽ có một buổi " ăn tươi " ra trò. Ngoài tài xoay sở của quản lý, còn thịt một con lợn ngót tạ. Tôi đã nói chúng tôi vẫn thay nhau đi lấy bèo để nuôi lợn. Mỗi trung đội cử một lính xuống phụ giúp anh nuôi pha chế món ăn. Thật buồn cười không ai nói ra, nhưng rất sợ cử những tên to béo xuống. ( vì sợ nó ăn nhiều ).Nhưng nuôi quân lại thích những cậu khỏe để mà sai. Nhưng niềm vui này không còn trong tâm trạng nữa rồi.

Trời mới tảng sáng mà đã nắng. Ở gần biển nên được mặt trời dọi những tia sáng lên những ngọn đồi úa vàng. Tiếng kẽng đã thôi thúc cả Hàm Rồng vào trận. Tiếng hô:

- Ra đa! Mở máy sục sạo mục tiêu!.

- Máy chỉ huy! Quan sát phương vị  A đến phương vị X !

 Khẩu lệnh cho pháo dõng rạc:

- Quan sát hướng 34! (là hướng biển Sầm Sơn). Pháo quay rào rào.

 "7h 05 xuất hiện 10 máy bay A6A, 2 máy bay F8, từ hướng đông – nam bay lên tây – nam, bay về hướng Tây - bắc, oanh tạc thị xã Thanh Hóa. Có hai chiếc tách ra đánh trận địa đại đội 5 ở Đồng Đá (Lò Lợn xã Hoàng Long, huyện Hoàng Hóa). Ra đa nhìn vòng ở Quảng Xương đã kịp thời phát hiện mục tiêu. Đài quan sát của ta cũng phát hiện kịp thời chuyển cấp - báo động. Các đại đội đã bắn chi viện cho lực lượng bảo vệ Thị xã Thanh Hóa. Bốn đại đội pháo 100 ly gồm các đại đội 1,2, đại đội 13, đại đội 14; pháo 57 ly có các đại đội 4 và 5, pháo 37 ly đại đội 7 tiểu đoàn 3. Một máy bay A4D bị bắn rơi cách biển Sầm Sơn 15 ki lô mét.

Đại đội 2 pháo 100 chuyển cấp chậm nên không bắn kịp. Đại đội 3, vận dụng phương án máy móc, trận địa còn ồn ào

11 h 45'  hai máy bay A4D bay vào trinh sát hỏa lực.

15 h 28' một F8U và 1A4D, bay từ biển đông lên đông bắc bay vòng về tây nam, lần thứ 3 thăm dò hỏa lực của ta. Các đại đội pháo 100 ly đã nổ súng, gồm Đại 1, đại đội 2 đại đội 13 và 14 (bắn bằng phần tử máy chỉ huy ), Pháo 57 ly có đại đội 5 và 6.

Thế là "ăn tươi" ngày Tết Độc lập đã bị phá đám. Cơm nước, lòng lợn, chả, dò mặc dù được đậy bằng bạt nhưng bị bụi chui vào đầy sạn không ai dám ăn nổi. Nhìn đồng đội đem gom cơm để đưa về chăn nuôi lợn mà ai cũng buồn thiu.

Nhưng các pháo thủ trận địa vẫn thông, rửa nòng pháo, đó là công việc khó nhọc của họ sau mỗi một trận đánh, Họ chuẩn bị cho trận chiến đấu mới.

              * * *

Ngày 3 tháng 9 năm 1967.

Chúng tôi trút bỏ buồn bực, như không sảy ra chuyện gì nghiêm trọng, dạy tập thể dục và làm công tác chuẩn bị chiến đấu. Anh nuôi, chắc thương tình hôm qua pháo thủ vất vả, bị địch phá mất ngày tết độc lập nên chuẩn bị cơm và thức ăn cũng nhỉnh hơn ngày thường. Tiếng trực ban gọi: - Mỗi khẩu đội cử người xuống lấy cơm. Vì trận địa ở trên đồi, mà chia cơm ở dưới giốc nên phải đưa chậu đĩa xuống lấy. Nếu không nhanh, báo động là không kịp đưa cơm lên trận địa.

- Các khẩu đội, ăn cơm khẩn trương kẻo địch vào! Tiếng nhắc nhở của chỉ huy. Ăn chưa hết bát, tiếng kẻng báo động như làn sóng âm thanh lan khắp trận địa và làng quê Hàm Rồng.

- Về vị trí xong! Tiếng hô như sấm vang dậy khắp các trận địa.

Những chậu cơm lại được đưa xuống gầm pháo, che đậy bằng bạt.

Trời hôm nay nắng khô. Mắt nhìn không bị chói, bắt được mục tiêu từ xa đây.

7h50', địch xuất hiện từ biển đông gồm 20 A4, 2F4, 4F8, 4A6Acó chiếc máy bay A3D khổng lồ, báo hiệu sẽ đánh lớn, chúng không về căn cứ mà tiếp dầu trên không.

Ở hướng Đông - Bắc gồm 12 A4D, 2F4 vào công kích, cho 2 A4 bay nghi binh. Cùng lúc vào đánh cầu và các trận địa bờ Bắc Hàm Rồng.

Ở hướng 32 (Tây – Nam) gồm: 4A6, 4F8, 6A4, tập trung tốp lớn đánh vào cầu, và dùng 50% đánh vào trận địa bờ Nam Hàm Rồn

Ta sẵn sàng chiến đấu. Chỉ huy sở trung đoàn đã giao nhiệm vụ cho từng đơn vị. Bốn đại đội pháo 100 ly, đại đội 14, bắn bằng phần tử ra-đa để phá tốp của địch từ cự ly xa, đại đội 13, bắn bằng phần tử máy chỉ huy, còn hai đại đội 1 và 2 bắn trực tiếp bằng tay quay. Pháo 57 ly có 5 đại đội, và 37 ly có hai đại đội được bố trí ở hai bờ Nam - Bắc Hàm Rồng.

Đợt thứ hai địch vào đánh phá Hàm Rồng lúc 11 h 25'. 18 chiếc gồm 4F4, 12 A4, 2 F8, từ hướng 34 bay lên 14, vòng về hướng số 1 sang 12 (hướng Đông bay lên Bắc, bay sang Tây Bắc) vào công kích cầu và trận địa. Chúng lấy mốc cao điểm 134 (nay đặt trạm phát sóng của đài PT – TH Thanh Hóa). Ở một độ cao lớn, bổ nhào sâu. Thao tác mà chuẩn xác sẽ có khã năng dứt diểm tốt mục tiêu.

Ra đa nhìn vòng Quảng Xương và đài quan sát của ta bắt được mục tiêu, phát hiện sớm nên không bị bất ngờ. Tiến hành bắn có một đại đội pháo 100 ly và 5 đại pháo 57 ly và một đại đội 37 ly.

Trận thứ 3. 15h 40' địch cho 35 chiếc gồm 12 A4, 4F4, xuất hiện từ hướng 34 (hướng Đông) vòng lên số 4, tức đông bắc, rồi về hướng Tây - Bắc, thay nhau vào công kích vào cầu và trận địa. Nhận được tin từ đài quan sát nên ta bắt và theo dõi được mục tiêu. Có 5 đại đội 57 ly,  3 đại đội 37 ly và 12,7 ly đã nổ súng.

Ngày 3 tháng 9 năm 1967, địch huy động 85 lần chiếc, đánh 3 đợt, dùng 50 % để đánh cầu, và 50% máy bay đánh trận địa, chủ yếu đánh trận địa bằng bom bi và bom fi zăng. Ta bắn rơi 3 máy bay. Nhưng đây là trận bị tổn thất nặng nhất ở Hàm Rồng.

             * * *

Ở đại đội 4, hôm nay công việc vẫn như mọi ngày. Dạy tập thể dục và làm công tác chuẩn bị chiến đấu. Ăn vội vàng cơm sáng, kẻng báo động chạy ra vị trí chiến đấu. Một ngày căng thẳng. Không được " ăn tươi " như mong đợi mà địch quần đảo, báo động cả đêm, dường như không giấc ngủ yên. Hôm nay, một số cán bộ đi họp và tập huấn trên Trung đoàn nên thiếu cán bộ chỉ huy. Vì vậy, trung đội trưởng trung đội 1, Dương Đình Long lên thay đại đội phó Vi Viết Lâng, Lê Quý Thái, khẩu đội trưởng khẩu đội 2 lên thay trung đội. Ở trung đội 1, thợ pháo (chúng tôi vẫn gọi là pháo công) Nguyễn Văn Đảng thay khẩu đội trưởng khẩu đội 2, quân khí Hoàng Viết Tung cũng vào làm pháo thủ...

Bắt được mục tiêu từ xa nên từ chỉ huy sở ra lệnh bắn. Dương đình Long ở giữa trận địa hô bắn. Đồng loạt tiếng hô bắn vang lên. Tất cả chỉ còn trong tiếng nổ của pháo và bom tung xuống. Lúc này, quyết định trận đánh chủ yếu là do các khẩu đội trưởng và pháo thủ hiệp đồng bắt được những máy bay nguy hiểm đánh vào cầu và trận địa. Trong Ký sự: " Hàm Rồng…Những Ngày ấy" ghi:

"Một chiếc F4 ném xuống đồi chỉ huy 2 quả bom bi mẹ, tiếng nổ và khói mù mịt trùm kín cả quả dồi. Tiếng hô: - Tiểu đội máy chỉ huy bị bom rồi! Cấp cứu!

Lê Xuân Giang tắt máy chạy sang hầm máy chỉ huy. Một cảnh đổ nát tang thương hiện ra trước mắt. Anh Khánh, anh Biền, anh Tí, anh Thái…nằm là liệt trên sàn máy. Anh Tý ôm vềt thương ở bụng nói:

- Giang ơi! Mày xem Biền thế nào!

- Để tôi băng cho anh! Tôi nghẹn ngào.

- Mày xem thằng Biền thế nào!

Tôi trườn dưới gầm máy, bò đến chỗ Biền. Biền nằm đó đôi mắt vẫn mở trừng trừng. Tôi sờ vào người anh. Toàn thân anh rung lên như có tiếng nấc nhẹ. Bàn tay tôi cứ lạnh dần, lạnh dần. Tôi cảm được cái chết đến với anh mà bất lực.

- Đồng chí Biền hy sinh rồi! Tôi nói.

- Đồng chí Biền bị giặc Mỹ giết hại rồi! Anh Tý nói rất to. Trả thù cho đồng chí Biền các đồng chí ơi!

Tôi quay lại thấy anh Phạm Hồng Thái nằm nghiêng, mắt mở lim dim. Tôi gọi: - Anh Thái! Anh Thái!. Anh không trăng trối một lời nào. Tim anh vẫn đập. Người anh vẫn ấm nóng.  Tôi lần hết người anh không thấy có vết thương. Anh bị sức ép ư? Tôi và Toản đưa anh Thái vào lán, anh nằm thanh thản, miệng hơi hé mở. Rồi anh bỗng mở mắt nhìn tôi, một cái nhìn sáng rực lên. Tôi lay gọi nghẹn ngào: - Anh Thái! Anh Thái! Giang đây mà! Anh Thái lịm dần trên tay tôi. Tôi khóc không ra tiếng. Tôi như rờ thấy thần chết cướp anh trên tay tôi"

Ở trận địa pháo, bom Fi răng và bom bi chùm lên. Tưởng là không ai có thể sống sót. Khẩu đội 4, Nguyễn Đắc Trung giơ cao lá cờ, lấm tấm nhưng viên bi xé rách. Anh đứng dựa vào bờ công sự. Miệng vẫn mở, tưởng chùng như đang hô. Như bức tượng tạc trên nền trời. Nguyễn Bá Chữ, pháo thủ số một, tay nắm tay quay, chân dậm cò pháo; nhưng đầu lại bay đi đâu mất. Nguyễn Văn Hiếu, số ba đứng tựa vào tay quay. Nguyễn Văn Đề  gục trân máng nạp đạn, tay vẫn nắm tì vào băng đạn. Nguyễn Văn Châu (trắc thủ đo xa, vào thay tôi vì thiếu pháo thủ số 4) mảnh bom bi bắn vào chân và mặt, tay nắm chặt mô hình máy bay.  Lê Huy Hợp, rời số 2, một tay nắm lấy tay bị thương. Tiếng khàn đục: - Báo cáo! Khẩu đội bốn đã hy sinh!

Lúc tôi và Lê Xuân Giang vào băng bó để anh đi viện. Anh nói với chúng tôi:

- Đừng nói cho nhà biết, mình bị thương nhé! – Anh cùng quê với chúng tôi.

Ở khẩu đội 2, thợ pháo Nguyễn Văn Đảng thay thế khẩu đội trưởng Lê Quý Thái. Anh đang trên đường đi phép về Phú Thọ, nghe nói địch đánh phá Hàm Rồng, mau chóng trở về trận địa. Bom bi nổ ba quả ngay trong hầm pháo. Đảng hy sinh tại chỗ. Lê Xuân Thanh và Hà Minh Chiếm cũng bị thương vào chân. Chiếm van nài Thanh bế anh lên mâm phảo để tiếp tục chiến đấu.

Ở khẩu đội 1. Một quả rơi vào mâm pháo. Khẩu đội trưởng Bùi Văn Kíp hy sinh. Lúc kiểm tra quân tư trang để gửi về gia đình, phát hiện ra. Trong ba lô có chè thuốc lá. Anh phải tiết kiệm từng đồng phụ cấp để mua chè thuốc. Anh mồ côi cha mẹ, nhà nghèo nên phải tự lo. Dự định xin phép về cưới vợ…nhưng chưa kịp. Hoàng Viết Tung bị thương cáng về gốc đa làng Đông Sơn. Biết không sống nổi, anh nhờ đồng đội nộp đảng phí cho mình. Và nhờ các cô dân quân cầm chìa khóa mở hòm giẻ lau pháo, phát cho đơn vị.

Khẩu đội 5, cũng bị một quả bom bi rơi vào công sự. Nhưng chỉ mình Nguyễn Văn Được, số 5 bị một mảnh bắn vào ngực, nên nạp đạn không liên tục, phảo bị ngừng bắn. Lúc đó, Nguyễn Ngọc Điện nói với tôi: - Tai tôi bị ù không nghe được gì cả! Tôi vội vàng nhảy xuống, yêu cầu số năm quay khóa nòng, dùng xà beng tống được vỏ đạn ra khỏi buồng đạn. Pháo lại bắn được như thường. Tôi tìm lấy viên phấn, mà mình vẫn viết khẩu hiệu ở bờ công sự. Viết lên hòm đạn pháo được ghép để kẻ khẩu hiệu : - Thà gục trên mâm pháo, quyết không để cầu gục. Lúc chính trị viên Hoàng Ngọc Ban và Chính ủy Đặng Đình Lai đến khẩu đội. Khẩu đội trưởng Nguyễn Ngọc Điện đã tập hợp pháo thủ đứng sau pháo, hô ba lần câu đó, thể hiện quyết tâm chiến đấu của khẩu đội đến cùng. Câu khẩu hiệu đó thành lời thề của người lính Hàm Rồng.

Ngày 3 tháng 9 năm 1967, là một ngày đau thương của Hàm Rồng.

Địch dùng 85 lần chiếc vào đánh phá cầu và trận địa. Ta hy sinh 43 đồng chí, bị thương 54 đồng chí, hỏng 4 khẩu pháo 100 ly, 2 khẩu pháo 57 ly, 2 máy Đ49 (máy chỉ huy), 1 ra đa,  1 máy bộ đàm P109, một số cuộn gây điện pháo…

Ngày nay, lên trận địa đại đội 4 Hàm Rồng…Có tấm bia ở bện phải, ghi tên các anh Nguyễn Văn Đảng, Nguyễn Đắc Trung, Nguyễn Bá Chữ, Nguyễn Văn Biền, Phạm Hồng Thái, Bùi Văn Kíp, Hoàng Viết Tung, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Văn Nhân…hy sinh ngày 3 tháng 9 năm 1967.

Tôi không khỏi ngậm ngùi, vì chưa viết được những điều mà các anh tâm niệm, gửi gắm./.


Ý kiến bạn đọc

Xem thêm bình luận